Năm mới con Khỉ đã sang, khép lại một năm con Dê sôi nổi với những sự kiện đổi mới giáo dục nước nhà. Trong khi dư luận vẫn còn mải tranh luận và bình luận về chính sách thi đại học kiểu mới, dự thảo đổi mới giáo dục phổ thông còn nhiều điều chưa hợp lý, hay con số giật mình ngót hai trăm nghìn cử nhân thạc sĩ thất nghiệp, thì những dòng đổi mới giáo dục trên thế giới đang cuộn chảy ầm ầm. Trong khi thế giới không dừng bước chân kiếm tìm những phương thức giáo dục mới, những công cụ giáo dục mới, những công nghệ với kì vọng thay đổi gốc rễ cách thức chúng ta học tập, thì người dân Việt Nam vẫn cần phải hết sức kiên nhẫn để vài năm nữa đề án đổi mới giáo dục phổ thông mang tiếng là “đổi mới toàn diện và triệt để” sẽ được thông qua và bắt đầu đi vào cuộc sống. Trong thời gian người lớn bàn chuyện đổi mới, trẻ con đã kịp lớn lên và vẫn học theo chương trình cũ.
1.
Không hiểu sao vừa từ seminar của a. Giáp Văn Dương ra, đầu bình thường trở nên đau như búa bổ. Hiểu chết liền.
2.
Trên đường về Yết Kiêu, mình quên ngay cái tội to đùng của mình khiến cho Sếp bị bọn ngoại bang nó mắng mỏ mà ấm ức gọi điện lại mắng mình té tát. Trong đầu cứ văng vẳng một ý tưởng “lại một người hùng chân đất nữa…”. Hiểu vì sao nghĩ thế … chết liền.
3.
Cụ già: “seminar thế nào? một từ thôi”.
Nghĩ hồi lâu, đáp bừa:”giản dị”.
Cụ già: “Dương giỏi quá”
Con kún nào đó nói leo: “giản dị như một thiên tài”.
Cụ hỏi tiếp: “cậu đánh giá thế nào về cái trường ấy”
Nghĩ hồi lâu và cũng lại đáp bừa: “một năm nữa không chết thì cũng biến dạng”.
Mình chỉ hy vọng là lời nói “thối mồm” ấy không đúng, không thành ra sự thật. Cầu mong cho anh Dương an lành và đạt được mục đích của mình. Phần mình, vì chẳng hiểu lắm mục tiêu thực sự của anh nên cũng chả biết đánh giá thế nào, phán là phán vậy thôi dựa trên trực giác là chủ yếu. Một phần lí tính sẽ được chép ra ở bên dưới.
4.
Từ 2004 mình đã quan tâm tới elearning, đồ án của mình có nhúng hương vị eleaning, blog cũ từ 2005 đã list cả đống website elearning miễn phí khắp thế giới để người đọc dùng, 2006 thì thực sự hưởng lợi từ elearning qua đài ABC của Úc, 2007 tiếp xúc với blendedlearning của Ấn, cùng năm ấy học kiểu blended learning ở trường của Úc, cuối năm ấy xảy ra tranh cãi dai dẳng về phương pháp dạy kiểu mới của ACCP ( blended learning) trong nội bộ các giảng viên Aptech, 2009 mình về HN quyết định chỉnh lại cái Moodle và hệ thống hóa lại cách dùng, bên cạnh đó tiếp tục tìm ra cái “lí thành công” của blended learning mà phía bạn Ấn độ quảng cáo (tới giờ vẫn chưa thấy); gần đây mắt mình dán vào Internet để những sự kiện như Khan Academy, Codecademy, Coursera, edX, Code.org … ngay từ ngày đầu còn được bàn tán.
2012 là năm dân tình điên cuồng về MOOC, cuối năm mình cũng suy tính về một cái Khan của Việt Nam; 2013 mở ra tài khoản coach trên Khan Academy để giúp cô em họ giải ngố môn Toán, được vài bữa mình đi khen tứ tung, nhưng là khen Khan tài thiệt chứ không khen MOOC hay.
5.
Về cái Khan Academy, có người ca ngợi “khan là một nghệ sĩ”, dân startup gọi anh là “thiên tài khởi nghiệp”, người làm giáo dục thì cứ gán (phịa?) hết cái lí này đến lí khác rằng nó có thể thay đổi thế giới thay đổi cái nền giáo giục nọ kia… Người ta hình như quên mất, lúc đầu Khan không muốn thay đổi thế giới, mà để “thay đổi cô em” mình thôi. Chuyện rất cá nhân và cụ thể thế thôi.
Einstein nói mọi sáng tạo đều hết sức cá nhân.
Châu nói “học giỏi đôi khi chỉ vì một lí do hết sức tầm thường thế này thôi: muốn impress ai đó; lúc nhỏ tôi muốn impress ông C, lúc làm TS thì muốn impress ông L”.
Việc lớn không nhất thiết phải bắt đầu từ cái lí do to tát.
Nhìn vào cái cách đặt vấn đề MOOC thay đổi thế giới, cách mạng trong giáo dục, một doanh nhân lão luyện cho biết “chú cứ làm cho vấn đề nó nghiêm trọng lên, anh thấy vấn đề đơn giản cực kì: ngày trước người ta làm thương mại, rồi có ebay người ta bắt đầu đua nhau thương mại điện tử; cái điện tử chỉ là phương tiện, là một kênh thôi, dạo 97-98 dân mình ào ào làm website mà quên mất là “hàng gì”, không có hàng thì thương mại cái gì? Múc miếc chỉ là cái kênh thôi”. Hình như đây là ý kiến phản biện đáng chú ý nhất về sự kiện MOOC “đã xuất hiện ở Việt Nam”.
6.
MOOC có thể nhìn nhận như là công nghệ thời Internet 2.0 dành cho việc dạy và học. Tức là công cụ phục vụ giáo dục phù hợp với biến chuyển của công nghệ đương thời.
Rõ ràng hơn, nó chỉ như cái platform mới cho việc học, một cái trường ảo được mở ra ở trên mạng.
Để đạt mục đích giáo dục của nó, vẫn phải xem hai thứ quan trọng nhất: nó dạy cái gì và bằng cách nào (hay nói cách khác: học sinh được học cái gì và học như thế nào).
Tôi mới chỉ thấy có hai anh Múc thực sự có đầu tư vào phần “chi tiết” này: Khan và Codecademy. Học trên Khan, sự tương tác là tức thì và liên tục, tương tác đa chiều thực sự. Các thiết kế bài giảng thì phù hợp với việc học dựa trên cái máy tính: thông điệp đơn giản, bài giảng ngắn súc tích, có xen kẽ bài tập và kiểm tra tiến độ, có một hệ thống khái niệm được móc nối với nhau chặt chẽ, người học biết mình ở đâu trong cây tri thức để dễ dàng tự định hướng. Anh Codecademy thì chỉ dạy có lập trình, chọn các ngôn ngữ có tính tương tác và đều là scripting để dạy (đố dạy được C trên đó đấy!); tức là sự lựa chọn phần nội dung học tập rất có định hướng và tương thích với phương thức học tập qua máy tính.
Hơn thế hình như Khan cũng rất quan tâm đến việc sử dụng các nội dung trong khuôn khổ các lớp học truyền thống (lại thành blended learning) và cung cấp cho nhà giáo một loạt các công cụ nâng cao để giúp việc học của học sinh đạt kết quả tốt hơn, cá nhân hóa cao hơn.
Những anh Coursera và edX mới chỉ dừng lại như là những nền tảng (platform) MOOC, và việc học trên đó mang tính blended learnning với video chiếm chủ đạo, và feedback thì không tức thì. Bài giảng trên đó không thống nhất phương pháp luận, không có “chuẩn” nào hết, cách học cũng đa dạng theo đó. Có thể hiểu đơn giản, nó giống như cái chợ quê ở VN: ai có gì mang ra đó bán. Việc gia nhập liên minh Coursera, edX hay Udacity hình như là chạy theo mốt, thấy anh Havard tham gia thì anh đây cũng tham gia chơi, còn tham gia thế nào thì cứ thò thụt vì chẳng biết nên làm thế nào. Vậy nên có chuyện đầu năm một trường ở Mẽo chấp nhận credit từ một khóa trên Udacity thì đến giữa năm quyết định “anh bỏ chuyến tàu”, tạm biệt Múc với miếc không hẹn ngày gặp lại. Còn rất nhiều việc phải làm với các anh Múc dạng này.
7.
Em Hiền hỏi: tham dự seminar xong, em vẫn không biết làm thế nào để làm ra bài giảng Múc cuốn hút anh ạ?
Trả lời: phần đó không liên quan đến Múc em ạ. Cái đó là “instructional design”.
Hiền lẩm bẩm: “con xờ trắc xần đì dai” như thể chuẩn bị ghi nhớ
Nhắc lại: không, in xờ trắc xần nần đì dai em ạ.
8.
Trong phần GS Châu kết luận seminar có đặt ra: nhưng chúng ta vẫn chưa rõ MOOC là gì?
Vâng một số người cứ làm MOOC, nhưng không để ý đến chuyện đó. Khi nói chuyện về múc miếc cũng không phân biệt múc và không-múc thì khác nhau thế nào? và anh Múc (có thể giống như ecomerce) sẽ đặt một cái chân nào của mình lên nền giáo dục Việt Nam? nó sẽ chơi trò gì? và liệu MOOC hay MOOCer có phải là game-changer trong trò chơi giáo dục không?
9.
Thực lòng trân trọng lòng nhiệt thành của anh Dương đối với đất nước.
Từ bây giờ, lịch sử giáo dục Việt Nam ghi thêm hai cái tên nữa: Giáp Văn Dương và GiapSchool. Welcome on board!
Báo Tết hình như là một nét văn hóa hay của làng báo Việt Nam.
Nhưng, cũng giống ông bác làm GS ngành Văn, “mấy năm rồi mình không đọc báo Tết” vì nó nhàn nhạt.
Cho tới khi có người quảng cáo báo Lao Động Tết năm Rắn có nhiều bài hay lắm. Mua về đọc thì đúng thế thật. Hay là do sự đồng cảm vì chủ đề xuyên suốt là Giáo dục – Khoa học – Hiền tài ? Chả biết! Nhưng xin để lại đây một trong số các bài như thế của nhà giáo Phạm Toàn – một con người khai phóng.
Mời bạn đọc một bài hay.
__________________________________________________
Sứ mệnh mở mang đầu óc con người
Nghĩ đến một sự nghiệp Giáo dục, tất phải nghĩ đến sứ mệnh mở mang đầu óc con người – bây giờ còn quen gọi là “khai phóng” – theo tinh thần khai mở, như từng được xướng xuất từ Phan Châu Trinh, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh.
Một nền giáo dục đúng nghĩa phải làm cho trí tuệ con em dân tộc mở mang, tự mình mở ra đón nhận tinh hoa của dân tộc và nhân loại. Nền giáo dục mở mang đó giúp tâm hồn con em ngày càng phong phú, cái tâm hồn như một thứ năng lượng cháy nóng bên trong mỗi cá nhân, tự thúc đẩy mình không bao giờ được đứng yên, không khi nào được ngừng tự mở mang.
Không có nền giáo dục mở mang đó, mọi hệ thống nhà trường chỉ là những lò ấp nô lệ, từ nơi ấy nếu gặp may mắn thì chỉ một số rất nhỏ đủ sức tự đào thoát ra được, để thành những con người tự do.
Chìa khóa của vấn đề mở mang đó nằm ở đâu?
Giáo dục thời nào cũng đau đáu một chuyện học cái gì (nội dung giáo dục), chuyệnphân bố nội dung đó (chương trình học từng lớp, từng cấp, từng chuyên khoa) – song chỉ có nội dung và chương trình cũng chưa đủ, vì chúng có thể bị làm méo mó thiếu hụt vì cách thức chuyển tải. Nghĩa là còn phải có điều kiện vô cùng quan trọng nữa, đó là cách thức làm cho những nội dung đụng chạm tới tất cả mọi con người trở thành tài sản tinh thần của riêng mỗi con người.
Thời chuyển tải bằng … lời
Trong một thời gian dài, động lực từ người giáo viên được coi là chìa khóa của một nền Giáo dục khai phóng (thời kỳ lấy bục giảng làm trung tâm với lời rao giảng làm công cụ truyền tải và mở mang trí óc người học).
Thế rồi vào thời kỳ gần đây, chìa khóa đó đã được nhìn nhận lại, động lực từ bản thân người học được coi là chìa khóa mở cánh cửa Giáo dục khai phóng (thời kỳ lấy người học làm trung tâm).
Thời kỳ lấy bục giảng làm trung tâm không phải là không có những nét đẹp mê hồn. Chứng cứ rành rành còn trong Quốc tử giám ở thủ đô Hà Nội nơi 82 tấm bia đá lưu giữ tên tuổi 1307 vị tiến sĩ. Ngô Tất Tố từng mô tả con đường tạo ra vẻ đẹp ấy trong tiểu thuyết “Lều chõng”,
… “trong các lò “rèn đúc nhân tài” bấy giờ, trường của cụ bảng Tiên Kiều là lớn hơn hết. Trừ ra mươi cậu đồng sinh là những con cháu trong nhà, học trò cụ bảng chỉ có hai lớp đại tập và trung tập. Trung tập hàng ngày phải đến nghe sách, hàng tuần phải học làm văn. Còn đại tập thì mỗi tháng tập văn hai kỳ. Kể cả đại tập và trung tập, học trò trong trường có tới gần ba trăm người. Vân Hạc và Khắc Mẫn đi đến cửa trường thì các cậu học trò trung tập cũng vừa kéo đến…”
“Theo lệ hàng ngày, mỗi buổi đều đọc đủ ba thứ sách: kinh, truyện và sử.
Hôm nay bắt đầu đọc Kinh dịch, rồi đến sách Trung dung rồi đến cuốn Tống sử. Mỗi khi đọc hết bài cái, bài bàn của một chương nào trong sách, cả trường im lặng như tờ. Mấy trăm con.mắt đều chăm chỉ ngó vào cuốn sách của mình. Mấy trăm lỗ tai đều bình tĩnh đợi nghe lời giảng của thầy. Bằng cái giọng sang sảng như tiếng chuông đồng, cụ bảng giảng rất rành mạch từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ nghĩa gần đến nghĩa xa, cụ chỉ rõ ràng lời bàn nào là phải, lời bàn nào là quấy. Cụ nói như rót vào tai học trò…”
Nền học ấy tạo ra cái dân trí mở mang theo phương pháp học của một thời – ta cứ gọi cho vui đi, là phương pháp cụ bảng Tiên Kiều! Tính chất thiêng liêng của bảng vàng bia đá khiến cho phương pháp học đó được giữ gìn trân trọng rất lâu…
Thì đây, phương pháp năm bước lên lớp độc tôn với những quy phạm khá khôn ngoan: ổn (ổn định lớp), kiểm (kiểm tra bài cũ), giảng (giảng bài mới), củng (củng cố kiến thức mới học được) và dặn (dặn dò những điều về làm ở nhà hoặc những việc phải làm thêm…). Ổn, Kiểm, Giảng, Củng và Dặn – một cách nói … hơi khập khiễng về lô gich ngôn ngữ, vì bao gồm bốn yếu tố Hán Việt … rồi thêm vào một yếu tố Thuần Việt.
Sang thời hiện đại, chớ nghĩ rằng năm bước lên lớp có thể hết đất dụng võ. Sang thời hiện đại, con người nhại lại những lời lẽ sang trọng về “thay đổi” phương pháp, đồng thời vẫn khư khư bám lấy nền giáo dục rao giảng. Cái quy phạm gieo rắc thói thụ động của “năm bước lên lớp” hoàn toàn có thể nối dài trong những tiết học có dùng các thiết bị “hiện đại”.
Một máy chiếu overhead thực chất có khi cũng chỉ ngang bằng cái bảng cho giáo viên đỡ bẩn vì bụi phấn, để giáo viên càng thêm thì giờ thao thao bất tuyệt vì đỡ công đi lại xóa bảng và viết bảng.
Một máy chiếu dùng công cụ powerpoint để giảng bài bằng các slide soạn sẵn hoặc dùng những đoạn phim minh họa có khi càng làm cho học sinh hết cơ hội suy nghĩ. Đúng thế, vì kết luận nằm sẵn ở slide cuối cùng chắc hẳn cũng là kết luận định sẵn trong đầu người rao giảng – nhờ thiết bị dạy học hiện đại mà có được một sự áp đặt ngọt ngào, mềm mại như quả đấm thép bọc nhung.
Ta sẽ chẳng dại gì mà bỏ rơi các thiết bị hiện đại để dùng chúng đúng lúc và đúng cách vào công cuộc giáo dục, miễn là thấy rằng các thiết bị hấp dẫn này mang nguy cơ cao làm kéo dài những khuyết tật của lối dạy học rao giảng, kéo dài kiểu nhà trường lấy bục giảng làm trung tâm..
Hai loại tư duy
Ta cùng xem xét tiếp chuyện Giáo dục với bậc Tiểu học. Sao lại Tiểu học? Bởi vì, tuổi tiểu học là bước ngoặt để trẻ em từ trạng thái đã có sừng có mỏ trong kinh nghiệm tư duy cụ thể chuyển sang thời kỳ học lấy cách tư duy trừu tượng.
Tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng khác nhau vô cùng. Nhà tâm lý học Pháp Gaston Bachelard phân biệt ở loài người một trình độ tư duy tiền khoa học (pré-scientifique) với một trình độ tư duy khoa học chính là để nói đến sự phân biệt giữa tư duy cụ thể và tư duy trừu tượng.
Tư duy cụ thể tiền-khoa học được thể hiện qua các thao tác quan sát, sắp xếp, thống kê, phân loại, phân tích và ứng dụng những tri thức đã có (ở trình độ cụ thể). Tư duy cụ thể từng giúp cho con người sinh sống và kéo dài dòng giống. Nhưng tư duy trừu tượng sẽ đưa con người có được những bước tiến khổng lồ.
Học tiếng Việt ở lớp Một mà thuộc các chữ cái a, b, c … rồi biết ghép chúng với nhau là kết quả của tư duy cụ thể; còn hiểu rõ bản chất ngữ âm tiếng Việt rồi tự dùng các ký hiệu mà ghi các âm đó lại và tự đọc được chúng là một trình độ tư duy ngôn ngữ học trừu tượng.
Học Văn mà biết nhắc lại những vẻ đẹp của các hình tượng là tư duy cụ thể ở tầm “nhại lại” chính cái trình độ tư duy cụ thể của người dạy. Nhưng, nếu hiểu rõ bản chất tâm lý học của thao tác tưởng tượng và thao tác liên tưởng, rồi tự tạo ra và dùng các biểu tượng như một thành tố của ngữ pháp nghệ thuật thì đó đã là tư duy trừu tượng.
Ca ngợi hiện tượng “kiến tha lâu cũng đầy tổ”, rồi khen ngợi tinh thần và tính cách “năng nhặt chặt bị”, là một trình độ tư duy cụ thể. Phản ứng lại bằng cách nghĩ và nói “cần cù bù thông minh” dù chưa là tư duy trừu tượng, nhưng đã là sự quan sát và phân tích của những đầu óc muốn tự mở mang sang một phương trời khác cho tư duy người.
Sự phân biệt này rất quan trọng đối với nhà giáo dục. Tổ chức một nền Giáo dục theo lối kéo dài kinh nghiệm của con trẻ, hấp dẫn chúng bằng những nhãn mác lòe loẹt hoành tráng, thì vừa làm lợi lại vừa làm hại các em. Một nền giáo dục trói buộc trong tư duy cụ thể tuy cũng giúp trẻ em có một trình độ trí khôn dù sao cũng đã hơn thuở hồng hoang – cái thưởbất kỳ biến cố nào cũng có thể xâm phạm vào cuộc sống vật chất hoặc tinh thần của nó – nhưng vẫn là kìm hãm con em trong vòng kim cô của kinh nghiệm cụ thể.
Cái tâm lý tạo ra nhu cầu học thêm (kéo theo nhu cầu dạy thêm) có nguồn gốc là tình trạng học và dạy học theo lối “kiến tha lâu”. Đó là tình trạng kiến thức được nhặt nhạnh và không thể biết khi nào thì “đầy tổ”. Dạy học theo lối “kiến tha lâu” thì phải dựa vào trí nhớ để áp đặt cho trí nhớ như cái kho chứa đồ và không thể thành cái cỗ máy sản xuất ra các loại đồ.
Có một nền Giáo dục khác để một em bé vào đời được mở mang khác hẳn với trình độ những con người thời hiện đại nhưng tư duy thì chẳng khác bao nhiêu so với thuở còn sống hoang dã. Có một nền Giáo dục khác để một em bé vào học lớp Một bắt đầu cuộc ra đời lần thứ hai của chính mình, một cuộc ra đời về tinh thần, một cuộc ra đời do chính em bé thực hiện với bàn tay tổ chức của nhà giáo.
Thời của lý thuyết hoạt động
Có thể có một nhà trường tiểu học ở đó sản phẩm của việc học của trẻ em lại do chính trẻ em làm ra. Đó là loại nhà trường của lý thuyết hoạt động. Đó là nhà trường của sự tự mở mang trí óc.
Bí quyết của sự tự mở mang nằm ở năng lực của nhà sư phạm tìm ra những thao tác của người đi trước khi họ tạo ra những thành tựu khoa học, nghệ thuật và đạo đức.
Những người đi trước tiêu biểu không chỉ để lại những sản phẩm, mà điều quan trọng là họ để lại những dấu vết là những thao tác tạo ra sản phẩm.
Những nhà ngôn ngữ học như A. de Rhodes, như Huỷnh Tịnh Của, như Trương Vĩnh Ký … cho đến Đào Duy Anh, Hoàng Tuệ, Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo … đều để lại không chỉ những công trình khoa học, mà còn để lại những thao tác nghiên cứu mà người đi sau có thể lặp lại để học và để sáng tạo tiếp.
Những nhà nghệ thuật như Nguyễn Du, Victor Hugo, Picasso, Rodin … như Điềm Phùng Thị, Văn Cao … đều để lại cả những tác phẩm và những thao tác làm ra tác phẩm. Một nhà trường của đầu óc bắt chước sẽ tạo ra những học sinh chỉ biết ngả mũ chào người xưa. Nhưng một nhà trường của tinh thần tự mở mang sẽ giúp học sinh tự làm ra cái Đẹp theo cách làm của người đi trước.
Những nhà tư tưởng như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Gandhi, Hồ Chí Minh … đều để lại những cách sống mà người đời sau có thể làm lại những yếu tố cốt lõi trong đạo đức lối sống của tất cả các vị đó.
Học thao tác nghệ thuật – thao tác tưởng tượng – sẽ đến với
Văn chương, chớ nên học những bài văn mẫu.
Tổ chức cho trẻ em làm lại chính các thao tác từng tiến hành bởi người đi trước là bí quyết của nhà sư phạm của ngôi trường mang tinh thần tự mở mang.
Bí quyết còn nằm ở cách tổ chức các cấp học. Có thể thay đổi số năm học. Có thể thay đổi thời lượng trong từng cấp học. Có thể thay đổi thêm bớt môn học và chương trình học. Nhưng hình như mọi thay đổi đều nên trả lời mấy câu hỏi: Thay đổi nhằm mục đích gì? Việc học được thực hiện như thế nào? Tức là giải đáp hai điều: mục tiêu và phương pháp thực hiện mục tiêu.
Thay đổi bao nhiêu thì cũng còn lại cái cốt lõi bất biến, mà cốt lõi của cốt lõi là tạo cho bậc tiểu học thành bậc học phương pháp học. Ở bậc tiểu học, những vật liệu (kiến thức bộ môn) chỉ cần vừa đủ để phục vụ cho việc chiếm lĩnh lấy phương pháp học – cái phương pháp gửi trong những thao tác làm ra những kiến thức nhân loại được gửi trong các bộ môn mang tính chất nhà trường.
Cái phương pháp học đó sẽ theo con em chúng ta suốt cuộc đời để các em tự mở mang trí tuệ, tự làm phong phú tâm hồn mình, tự thúc đẩy mình lao vào cuộc sống thực với vô vàn vẻ đẹp hơn nhiều so với sự thưởng thức thụ động những bộ phim rẻ tiền và những cuốn sách phá hoại nền văn hóa đọc vì có vô số hình vẽ suy tư hộ cho người đọc.
Đổi mới một công cuộc Giáo dục là vô cùng gian nan. Nhiều người bỏ cuộc chỉ biết cứu lấy con em mình bằng những cuộc đào tẩu du học ở nước ngoài, có khi du học từ lúc tuổi còn rất nhỏ – thậm chí có cả hình thức “du học trong nước”, cứu con em mình trước, cứu nước cứu nhà sau, mình không cứu đã có kẻ khác cứu.
Đổi mới để có một công cuộc giáo dục theo tinh thần tự mở mang lại càng khó, vì chỉ với tấm lòng muốn thay đổi vẫn không đủ, còn phải biết cách thay đổi.
Những đóng góp cho công cuộc chấn hưng Giáo dục cần phải được huy động bằng sức lực và tâm trí của những cá nhân và những nhóm tác giả – đó là tự do hóa công cuộc chấn hưng.
Những đóng góp của các nhóm và các cá nhân đó lại cần được đối xử dân chủnghĩa là công bằng, không thiên vị.
Ngay cả khi có thể làm được như thế, cũng đừng trông đợi trong một đêm xây xong một kinh thành và trong một vài ngày cái cây sẽ lớn vọt và cho trái ngọt.
Phạm Toàn
Những ngày cuối năm 2012
(Bài đăng Lao động số Xuân Quý Tỵ 2013)
Tìm kiếm
Sách mới: Tư duy thiết kế cho mọi người
Bài viết mới
Đang được chú ý
Chuyên mục
- Agile Mindset (149)
- Chuyện đời (22)
- Công nghệ (14)
- Đọc (75)
- Sách (46)
- Giáo dục (197)
- Constructivism (5)
- Học cách học (35)
- Khai phóng Giáo dục (19)
- Tu thân (5)
- Khác (15)
- Lean Startup (16)
- Linh tinh xòe (53)
- Lan man (24)
- Quản trị mới (57)
- COVID19 (9)
- Tài nguyên (2)
- Tri thức và Nhận thức (17)
- Xã hội tri thức (23)
- Tổ chức học tập (20)