Học nhiều và biết nhiều là tốt. Vì nó giúp ta có thể học thêm những thứ khó hơn nữa, đào sâu thêm nữa. Học nhiều cỡ nào cũng không thừa. Có nhiều thông tin và trải nghiệm, ta có nguyên liệu để trộn, để móc nối, và tạo ra ý nghĩa mới. Học ít thì hiểu biết ít, lúc cần hỏi Google không biết hỏi hắn cái gì.
Nguyên lí là một từ được dùng rộng rãi, có lẽ do nhiều người thấy nó quan trọng. Nhẽ ra nguyên lí phải có tính khách quan (tức là cái gốc, không thể bỏ được), nhưng hầu hết các thứ được gọi là nguyên lí lại có tính tương đối, không đầy đủ và có tính bối cảnh. Vì thế có thể gọi chúng là hệ “tiên đề” hay các “giả định” của ai đó. Khi đã gọi nguyên lí theo nghĩa giả định (assumptions) thì tức là niềm tin cơ bản, miễn phán xét đúng sai. Ta sẽ làm theo nó, chấp nhận nó, và tự nguyện để nó điều khiển mình. Và do đó, nó rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của ta. Số lượng nguyên tắc thường không nhiều. Nhưng nó “cứng”, vượt thời gian. Cho nên, nếu có một danh sách nguyên lí đủ tốt, nó giúp ta làm việc linh hoạt trong bối cảnh. Nó giúp ta “lấy cái bất biến để ứng phó với cái biến động đa dạng”.
Nhiều người thông thái đã cất công đúc rút và kiểm nghiệm ra các bộ nguyên lí của riêng mình. Một số được đẽo gọt và kiểm chứng qua thời gian với nhiều bối cảnh đa dạng, một số thì không. Một số được viết ra, một số chỉ được truyền miệng. Ví dụ, đời làm việc năng động của Inamori Kazuo giúp ông đưa ra được một “triết lí” ngắn gọn và hữu hiệu để làm nền tảng cho một lối sống tích cực (Xem bản tóm tắt ở đây) . Nó được viết ra, lưu truyền rộng rãi và có cơ hội tốt để kiểm chứng tính hữu hiệu. Thử xem những gợi ý của ông để có một cuộc đời viên mãn và làm việc cho tốt:
Thành quả là do tích số của tư duy, nhiệt tình và năng lực
Tư duy thế nào, cuộc đời ra thế ấy
Luôn nuôi những giấc mơ đầy tham vọng, và bỏ toàn tâm toàn ý sống với giấc mơ ấy.
Luôn xác định rõ mục đích sống. Phải mài rũa tâm trí, mở rộng tâm hồn.
Hãy sống đúng đắn với tư cách của một con người. Đừng quên những bài học được dạy từ tiểu học: không nói dối, trung trực, không lừa gạt người khác, không tham lam.
Phục vụ những điều tốt đẹp hơn của nhân loại và thế giới với tâm thức vị tha.
Sống phản tỉnh mỗi ngày, để xem xét từng hành vi, sửa lỗi và cải thiện.
Sống nghiêm túc từng giây phút mỗi ngày.
Sống với động cơ không ích kỉ, và đức hạnh.
Sống với một trái tim thuần khiết và nồng ấm.
Luôn yêu công việc của bạn, không kể đó là việc gì.
Không nề hà những việc tẻ nhạt
Luôn sáng tạo trong công việc
Hãy là “trung tâm của cơn lốc” với sáng kiến và cam kết hết mình.
Ra quyết định đúng đắn, không ích kỉ
Bám sát hiện địa, hiện vật để giải quyết vấn đề
Làm hết sức mình vì đồng nghiệp
Không ngừng vươn tới sự hoàn hảo
Chỉ mua những gì chúng ta thật cần, đúng lúc
Nắm bắt vấn đề thật đơn giản, ngay cả khi đối mặt với những thứ phức tạp
Nhìn quanh, tôi nhận ra phần lớn người đọc bộ “nguyên lí” này thấy nó gần gũi và dễ đồng tình. Nhưng cũng có vài người có thể không đồng ý với một trong các điểm kể trên. Họ có thể thấy phần còn lại hữu dụng thì có thể bỏ đi vài chỗ, hoặc sửa đi cho vừa với lối nghĩ của bản thân. Nếu ai đó bỏ gần hết thì tức là hệ tư duy của người đó rất khác so với Inamori. Lúc đó, họ sẽ đi tìm những bộ “bí kíp” khác.
Nhìn rộng ra, bộ nguyên lí trên đây có thể coi là một tập hợp các giả định để gây dựng nên một tập hợp người có nền tảng nguyên tắc giống nhau về lối nghĩ lối sống. Nó tạo ra một cộng đồng văn hóa chung niềm tin, chung hệ giá trị, chung quy ước. Sẽ rất có ích khi một cộng đồng được gắn kết xoay quanh những yếu tố văn hóa chia sẻ như thế này.
Trên đường học hỏi của mình, ta sẽ bắt gặp nhiều “guru”, những “cao thủ”, những “danh nhân”, với nhiều bộ “nguyên lí khác”. Họ sẽ có những lời khuyên, trong số đó là các “nguyên lí”. Câu hỏi được đặt ra là có nên theo hay không, theo cái gì và không theo cái gì? Từ quan điểm hành dụng (pragmatic), chúng ta xem xét nó có hữu ích không bằng cách đặt câu hỏi: nếu tin và làm theo thì thế nào? Giả sử nếu tuân thủ nguyên tắc “sống với trái tim thuần khiết và nồng ấm” thì thế nào? Cuộc sống ta có tốt đẹp lên không, thế giới quanh ta có tốt đẹp lên không? Nếu tuân thủ “phục vụ những điều tốt đẹp hơn với tâm thức vị tha”, thì thế nào? Nó có mang lại cuộc sống hạnh phúc viên mãn không? Cân nhắc xong, ta có thể có một danh sách “nguyên lí” của riêng mình. Thời gian tiếp theo là dành cho chứng nghiệm. Bạn sẽ phải sống với những nguyên lí này, và quan sát tác dụng của chúng.
Tôi cũng thử phác thảo về bộ nguyên lí tối giản của mình “Để làm việc cho tốt”, nó sẽ hao hao như thế này:
Luôn yêu công việc của bạn, dù đó là việc gì.
Có thái độ tốt, công việc sẽ tốt, kể cả những việc rất tẻ nhạt.
Cách bắt đầu một công việc tốt là tìm cách giải quyết vấn đề của chính mình.
Đặt được bài toán hay, sẽ có lời giải hay.
Làm cho vấn đề thật đơn giản, ngay cả khi nó rất phức tạp
Là “chủ sở hữu” của sáng kiến và cam kết hết mình, và sống ở thể chủ động (proactive).
Bám sát thực tiễn để ra quyết định hiệu quả.
Ra quyết định đúng đắn, không ích kỉ
Sáng tạo không ngừng
Cải tiến liên tục, vươn tới sự hoàn hảo
Nghỉ ngơi cũng quan trọng không kém bận rộn.
Khi đã mất hứng với một công việc, nghĩa vụ cuối cùng là bàn giao lại cho người có nhiệt tình và khả năng.
Nguyên tắc của bạn để làm việc cho tốt gồm những gì?
Sự học hỏi đỉnh cao không thể gồm toàn sự thoải mái hạnh phúc. Ta sẽ phải học những khái niệm khó hiểu, phải luyện những kĩ năng tay chân đòi hỏi sự căng cơ đau nhức mướt mồ hôi. Ta sẽ phải đối mặt với chuyện ngán đến tận cổ không muốn tập thêm.
Cái gọi là ra ngoài “vùng thoải mái” (comfort zone) chính là như thế. Không ra khỏi vùng thoải mái, thì không thể lên đẳng cấp mới được.
Trông người nghệ sĩ lúc luyện thanh hoặc tập đàn, rất vất vả và trần trụi. Khác xa lúc biểu diễn dưới ánh đèn sân khấu. Những đứa trẻ tập múa phải oằn lưng xoạc với giãn cơ, xương kêu răng rắc, chứ không thướt tha uyển chuyên như trên phim.
Các vận động viên thể thao cũng vậy. Những nhà khoa học, hay nhà quản lí cũng thế thôi. Không có ngoại lệ.
Đó là quy luật nghiệt ngã của luyện tập có chủ đích. Để vươn lên đến sự tinh thông, ta cần phải được đặt dưới một kỉ luật rèn luyện thực sự gian nan. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần có quyết tâm lớn trong thời gian đủ dài. Trong chặng đường đó, chúng ta thường cần người đồng hành, có thể là một “bà mẹ Việt Nam anh hùng”, có thể là một ông thầy tâm huyết, có thể là đám bạn cùng tiến, và cần cả một môi trường cho việc luyện tập nữa.
Người lớn học thế nào? Việc học của người lớn có giống cách học của trẻ con? Người lớn học tập từ đâu? Điều gì khiến việc học của người lớn trở nên hiệu quả?
Đó hẳn không phải là những câu dễ trả lời.
Động cơ học tập của người lớn có thể phức tạp hơn, đa dạng hơn nhưng những cơ chế để hình thành kiến thức thì có nhiều điểm tương đồng với việc học của trẻ con. Ngoại trừ các phương diện thực dụng, việc học bền vững và chủ động ở người lớn cũng vẫn đòi hỏi những tiền đề như là sự ham muốn học hỏi, cần sự trải nghiệm, và cần thời gian để xây dựng một hệ thống tri thức cho riêng mình.
Buổi chuyên đề “Học cách học” với diễn giả Dương Trọng Tấn chiều ngày 24/5 mang đến cho sinh viên FPT Arena và nhiều bạn trẻ khác cái nhìn sâu sắc về việc học và nghệ thuật học.
Anh Dương Trọng Tấn là cựu Giám đốc FPT Aptech, hiện giữ vai trò Giám đốc Học viện Agile. Đây là đơn vị cung cấp các giải pháp học tập và huấn luyện Agile tiên phong tại Việt Nam. Trong thời gian dài, diễn giả dành nhiều sự quan tâm đến cách học, cách con người học và cách giáo viên giảng dạy. Anh nhận ra “đôi khi mọi người học theo thói quen của người khác và theo kinh nghiệm là chủ yếu”. Anh Tấn cho rằng giáo viên cũng không ngoại lệ. Trừ kiến thức từ trường sư phạm, họ sẽ nhìn người đi trước dạy như thế nào và áp dụng, không để tâm đến cách bản thân mình và người khác học thế nào là hiệu quả. “Tôi cho đó là điều chúng ta bỏ quên và lãng phí bởi nếu hiểu hơn về cách não bộ hoạt động và cách tiếp cận kiến thức sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian và việc học cũng rất hiệu quả”, anh bình luận.
Nếu bạn gặp một bài toán khó, dù cố gắng nhiều mà giải mãi không xong, thì làm thế nào? Câu trả lời phổ biến nhất là cố gắng tìm ra chỗ sai trong lập luận rồi đi tiếp hoặc “làm lại từ đầu”. Cả hai phương án theo kinh nghiệm này không phù hợp với những lời khuyên của các chuyên gia về não bộ.
Bài này chỉ dẫn bí quyết đọc sách dành cho những người bận rộn không có đủ thời gian để đọc đủ một cuốn sách dạy cách đọc sách. Những người nào đã đọc rồi, hoặc tự thấy mình đã thạo việc đọc sách rồi, hoặc thấy mình không phải kẻ thế mà đần thì không nên đọc 🙂
Bài hơi dài một tí, nhưng mà hơi bị hay, chỉ có kẻ “thế mà đần” mới đủ can đảm đọc từ đầu đến chữ cuối cùng.
Hiện nay nhiều sinh viên vẫn chưa biết đọc một cuốn sách giáo trình sao cho tốt, chưa biết tóm tắt ý chính một chương sách, chưa biết dùng Index của một giáo trình. Đọc mới có một cuốn đã không tiêu hết và kêu nặng, trong khi nhẽ ra phải xử lý gấp đôi gấp ba khối lượng đó. Rõ ràng đây là biểu hiện của một năng lực tự học yếu kém. Yếu ở năng lực cốt lõi bậc nhất trong toàn bộ quá trình hoạt động trí óc: Đọc.
Trong tiếng Việt, không ngẫu nhiên mà từ học có đi kèm với hai từ quan trọng khác tạo thành “học hỏi” -và “học hành”. Từ ấu thơ cho tới trưởng thành, chúng ta liên tục đặt ra các câu hỏi, và tri thức lớn dần từ đấy. Có thể nói không ngoa rằng, khởi nguồn tri thức chính là các câu hỏi. Vì thế, mấu chốt của cả việc học lẫn việc dạy chính là đặt câu hỏi. Không có câu hỏi, không có tư duy. Hơn thế nữa, trong thời đại của sự thừa mứa thông tin, Internet phủ khắp và các công cụ tìm kiếm lúc nào cũng sẵn sàng, việc ghi nhớ càng mất dần ý nghĩa. Các câu hỏi lúc này trở thành yếu tố quan trọng số một để một người bắt đầu với việc học. Trong khi đó, nền giáo dục Việt Nam có truyền thống “thầy đọc – trò chép” hằng nghìn năm, vì thế người dạy không có thói quen khuyến khích câu hỏi, người học thụ động ít khi đặt câu hỏi. Đây là đặc điểm hơi bất bình thường của một nền giáo dục lành mạnh. Và chính điều đó gây ra cản trở lớn cho cả việc dạy lẫn việc học. Để khơi dậy lại cái trí tò mò ham hiểu biết của người học, để việc học thực sự trở nên “tự thân”, nhà giáo sẽ phải dụng công hơn nhiều trong việc chuẩn bị cho các chiến lược hỏi-đáp để vượt qua cho kì được cái quán tính đó. Và trong tiến trình đó, rõ ràng là cả người thầy và học trò đều phải rèn luyện khả năng hỏi-đáp của mình. Và trên hết, cả hai đối tượng đó phải thành thục tư duy phản biện (critical thinking) vốn có nội hàm quan trọng chính là các câu hỏi.