Tuyên ngôn Agile là một trong những văn bản có tác động lớn rất lớn tới cuộc sống của tôi trong gần 15 năm qua. Kể từ dự án đầu tiên sử dụng User Story, đọc sách của Mike Cohn cho đến những ngày phát triển cộng đồng HanoiScrum, Agile Vietnam, mở các hội thảo Agile vào đầu 2010s, thúc đẩy đào tạo agile software development tại khối giáo dục FPT, sau đó là hoạt động đào tạo-tư vấn tại Học viện Agile, Tuyên ngôn Agile đã đồng hành trên từng bước đi. Tôi biết rằng rất nhiều người cũng “chịu ơn” Agile nhiều vì nó đã làm thay đổi nhân sinh quan, thay đổi cách làm, mang lại kết quả tuyệt vời trong công việc và cuộc sống của họ.
Gần đây có vài bạn hỏi tôi “Có cách nào làm việc với người mình không thích không hả anh?” Thực ra bạn đã hỏi được câu hỏi này là đã gần ra đáp án rồi. Nhiều người thậm chí còn không đặt được câu hỏi ấy. Mặc nhiên không thèm làm việc với người mình không thích. Lại còn phản đối ra mặt. Làm ảnh hưởng tới việc chung, và cũng tự mình làm mất đi chút uy tín cá nhân.
be professional
Được làm việc với “cạ cứng” thì thích quá. Nhưng thực tế là ta hay phải làm việc những người không giống mình, đôi khi mình lại không ưa. Làm thế nào để cảm giác không tích cực về người cộng tác không ảnh hưởng đến kết quả công việc? Đặt câu hỏi kể trên cho Google, ta sẽ ra được vài gợi ý hữu ích. Mark Nevins có viết một bài trên Harvard Business Review từ 2018, với các lời khuyên:
Phản tư (reflect) xem nguyên nhân của cảm giác ở đâu ra và cách mình phản hồi với nó. Hiểu mình đã.
Cố mà hiểu cho kĩ quan điểm, lập trường và góc nhìn của người đó. Hiểu “đối phương” rồi có ứng xử phù hợp.
Tập trung vào giải quyết vấn đề, đừng tập trung vào chỉ trích hay cạnh tranh.
Hỏi nhiều câu hỏi vào. Có thể xếp kế hoạch của mình lại cái đã. Quan tâm tới đối phương, tạo điều kiện cho tương tác và hiểu nhau.
Cải thiện sự chú ý tới sự khách biệt về “phong cách tương tác”. Mọi người có cách tương tác không giống nhau. Đừng “bắt người khác phải giống mình” hay “phải theo cách của mình”.
Nhờ người đối phương giúp đỡ. Điều này có thể cải thiện mối quan hệ.
Dianna Booher gợi ý 4 cách hơi khác, có vẻ ít đòi hỏi “tự giác” hơn, trên Forbes :
Tìm hiểu quan điểm khách quan trong mỗi vấn đề
Tự kiểm duyệt các từ ngữ dễ dẫn đến xung đột mỗi khi giao tiếp (email/message/trực tiếp). Có thể nhờ người khác giúp cho việc này.
Hạn chế tiếp xúc tối đa
Ủy nhiệm cho một trung gian
Trong số các ý tưởng ở trên thì mẫu số chung là “hiểu mình, hiểu đối phương”, và sau đó là “phản ứng chậm lại”. Ta có thể tham khảo thêm “Tuyên ngôn Nghĩ chậm” để bổ sung những cách làm nhất quán:
“Đặt câu hỏi trước khi trả lời, Quan sát trước khi đánh giá, Đổi góc nhìn trước khi nêu quan điểm, Tự phản tỉnh trước khi phê bình.”
Chừng đó gợi ý có lẽ đã là đủ nhiều. Nếu phải rút gọn thành bộ “nguyên tắc” dẫn đường, tôi nghĩ, chỉ cần vận dụng thật khéo bốn điểm cuối cùng là được. Chắc chắn hữu ích.
Chúng tôi đã khám phá ra cách thức tốt hơn để cộng tác trong các dự án liên ngành. Qua đó chúng tôi đánh giá cao việc:
Đặt câu hỏi trước khi trả lời, Quan sát trước khi đánh giá, Đổi góc nhìn trước khi nêu quan điểm, Tự phản tỉnh trước khi phê bình.
Con người có xu hướng nghĩ nhanh. Điều này dẫn đến những hệ quả không mong muốn. Các yếu tố bên trái thúc đẩy việc nghĩ chậm hơn. Chúng cải thiện những điều bên phải và do đó, nên được áp dụng một cách có ý thức và thật kĩ lưỡng.
Hãy áp dụng điều bên trái nhiều hơn so với những gì trực giác mách bảo bạn phải làm.
Chúng ta đang sống trong thời đại của mập mờ. Chữ A trong thuật ngữ VUCA là mập mờ. Chữ A trong thuật ngữ mới hơn TUNA vẫn là chữ ấy: Ambiguity là mập mờ. Một công ty khởi nghiệp trong thời đại TUNA thì lại càng mập mờ. Covid đặt nhiều thứ vào tình trạng “chả biết thế nào mà lần”. Mù mờ như xe đi trong màn sương trên Mã Pì Lèng mùa đông.
Ít ai lại thích bị phê bình, nhưng sự tiến bộ của bản thân mỗi người lại phụ thuộc không ít vào sự tiếp nhận sự phê bình từ những người xung quanh. Việc này thực ra có thể đã diễn ra rất thường xuyên và tự nhiên khi ta còn nhỏ. Quét nhà không sạch, bị mẹ rầy la; ta sửa lại cách quét cho nó sạch. Nấu cơm bị nhão, mẹ mắng; ta rút kinh nghiệm để lần sau cho bớt nước đi. Ta không lăn tăn về “thiện chí” của mẹ. Mẹ chỉ cần đưa ra phản hồi, và ta sửa. Ta không đánh giá xem lời “góp ý” của mẹ có mang tính xây dựng hay không.
Trong lớp học NeoManager, nhiều học viên là các nhà quản lí không khỏi ngạc nhiên trước trải nghiệm tri thức tuyệt vời mà hoạt động reflection (phản tỉnh) mang lại. Có vài vị hỏi có bí kíp nào đặc biệt gì không, căn cứ nào để “bịa” ra hoạt động học tập tuyệt vời này. Chìa khóa ở đây chính là đường lối học tập trải nghiệm dựa trên sự phản tỉnh có chủ đích (reflective learning).
Có thể nói gần đúng đây là cách học của Phật, của Khổng Tử, của Lão Tử. Bằng cách quan sát thân/tâm/sự việc/vạn vật và tự rút ra bài học, rồi lại đối chiếu, chỉnh sửa và tiếp tục cải thiện sự hiểu biết thông qua thực hành để đạt được sự sáng suốt (wisdom) qua thời gian. Truyền thống học tập dựa trên kinh nghiệm và chiêm nghiệm này tiếp tục được truyền dạy cho đến ngày nay. Như trong các sách do Inamori Kazuo viết đã nhấn mạnh một “nguyên lí” để tu thân: phản tỉnh mỗi ngày. Tính ra, truyền thống này đã hơn 2500 năm rồi.
Nguyên lí là một từ được dùng rộng rãi, có lẽ do nhiều người thấy nó quan trọng. Nhẽ ra nguyên lí phải có tính khách quan (tức là cái gốc, không thể bỏ được), nhưng hầu hết các thứ được gọi là nguyên lí lại có tính tương đối, không đầy đủ và có tính bối cảnh. Vì thế có thể gọi chúng là hệ “tiên đề” hay các “giả định” của ai đó. Khi đã gọi nguyên lí theo nghĩa giả định (assumptions) thì tức là niềm tin cơ bản, miễn phán xét đúng sai. Ta sẽ làm theo nó, chấp nhận nó, và tự nguyện để nó điều khiển mình. Và do đó, nó rất quan trọng và có tầm ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của ta. Số lượng nguyên tắc thường không nhiều. Nhưng nó “cứng”, vượt thời gian. Cho nên, nếu có một danh sách nguyên lí đủ tốt, nó giúp ta làm việc linh hoạt trong bối cảnh. Nó giúp ta “lấy cái bất biến để ứng phó với cái biến động đa dạng”.
Nhiều người thông thái đã cất công đúc rút và kiểm nghiệm ra các bộ nguyên lí của riêng mình. Một số được đẽo gọt và kiểm chứng qua thời gian với nhiều bối cảnh đa dạng, một số thì không. Một số được viết ra, một số chỉ được truyền miệng. Ví dụ, đời làm việc năng động của Inamori Kazuo giúp ông đưa ra được một “triết lí” ngắn gọn và hữu hiệu để làm nền tảng cho một lối sống tích cực (Xem bản tóm tắt ở đây) . Nó được viết ra, lưu truyền rộng rãi và có cơ hội tốt để kiểm chứng tính hữu hiệu. Thử xem những gợi ý của ông để có một cuộc đời viên mãn và làm việc cho tốt:
Thành quả là do tích số của tư duy, nhiệt tình và năng lực
Tư duy thế nào, cuộc đời ra thế ấy
Luôn nuôi những giấc mơ đầy tham vọng, và bỏ toàn tâm toàn ý sống với giấc mơ ấy.
Luôn xác định rõ mục đích sống. Phải mài rũa tâm trí, mở rộng tâm hồn.
Hãy sống đúng đắn với tư cách của một con người. Đừng quên những bài học được dạy từ tiểu học: không nói dối, trung trực, không lừa gạt người khác, không tham lam.
Phục vụ những điều tốt đẹp hơn của nhân loại và thế giới với tâm thức vị tha.
Sống phản tỉnh mỗi ngày, để xem xét từng hành vi, sửa lỗi và cải thiện.
Sống nghiêm túc từng giây phút mỗi ngày.
Sống với động cơ không ích kỉ, và đức hạnh.
Sống với một trái tim thuần khiết và nồng ấm.
Luôn yêu công việc của bạn, không kể đó là việc gì.
Không nề hà những việc tẻ nhạt
Luôn sáng tạo trong công việc
Hãy là “trung tâm của cơn lốc” với sáng kiến và cam kết hết mình.
Ra quyết định đúng đắn, không ích kỉ
Bám sát hiện địa, hiện vật để giải quyết vấn đề
Làm hết sức mình vì đồng nghiệp
Không ngừng vươn tới sự hoàn hảo
Chỉ mua những gì chúng ta thật cần, đúng lúc
Nắm bắt vấn đề thật đơn giản, ngay cả khi đối mặt với những thứ phức tạp
Nhìn quanh, tôi nhận ra phần lớn người đọc bộ “nguyên lí” này thấy nó gần gũi và dễ đồng tình. Nhưng cũng có vài người có thể không đồng ý với một trong các điểm kể trên. Họ có thể thấy phần còn lại hữu dụng thì có thể bỏ đi vài chỗ, hoặc sửa đi cho vừa với lối nghĩ của bản thân. Nếu ai đó bỏ gần hết thì tức là hệ tư duy của người đó rất khác so với Inamori. Lúc đó, họ sẽ đi tìm những bộ “bí kíp” khác.
Nhìn rộng ra, bộ nguyên lí trên đây có thể coi là một tập hợp các giả định để gây dựng nên một tập hợp người có nền tảng nguyên tắc giống nhau về lối nghĩ lối sống. Nó tạo ra một cộng đồng văn hóa chung niềm tin, chung hệ giá trị, chung quy ước. Sẽ rất có ích khi một cộng đồng được gắn kết xoay quanh những yếu tố văn hóa chia sẻ như thế này.
Trên đường học hỏi của mình, ta sẽ bắt gặp nhiều “guru”, những “cao thủ”, những “danh nhân”, với nhiều bộ “nguyên lí khác”. Họ sẽ có những lời khuyên, trong số đó là các “nguyên lí”. Câu hỏi được đặt ra là có nên theo hay không, theo cái gì và không theo cái gì? Từ quan điểm hành dụng (pragmatic), chúng ta xem xét nó có hữu ích không bằng cách đặt câu hỏi: nếu tin và làm theo thì thế nào? Giả sử nếu tuân thủ nguyên tắc “sống với trái tim thuần khiết và nồng ấm” thì thế nào? Cuộc sống ta có tốt đẹp lên không, thế giới quanh ta có tốt đẹp lên không? Nếu tuân thủ “phục vụ những điều tốt đẹp hơn với tâm thức vị tha”, thì thế nào? Nó có mang lại cuộc sống hạnh phúc viên mãn không? Cân nhắc xong, ta có thể có một danh sách “nguyên lí” của riêng mình. Thời gian tiếp theo là dành cho chứng nghiệm. Bạn sẽ phải sống với những nguyên lí này, và quan sát tác dụng của chúng.
Bới cát tìm sò
Tôi cũng thử phác thảo về bộ nguyên lí tối giản của mình “Để làm việc cho tốt”, nó sẽ hao hao như thế này:
Luôn yêu công việc của bạn, dù đó là việc gì.
Có thái độ tốt, công việc sẽ tốt, kể cả những việc rất tẻ nhạt.
Cách bắt đầu một công việc tốt là tìm cách giải quyết vấn đề của chính mình.
Đặt được bài toán hay, sẽ có lời giải hay.
Làm cho vấn đề thật đơn giản, ngay cả khi nó rất phức tạp
Là “chủ sở hữu” của sáng kiến và cam kết hết mình, và sống ở thể chủ động (proactive).
Bám sát thực tiễn để ra quyết định hiệu quả.
Ra quyết định đúng đắn, không ích kỉ
Sáng tạo không ngừng
Cải tiến liên tục, vươn tới sự hoàn hảo
Nghỉ ngơi cũng quan trọng không kém bận rộn.
Khi đã mất hứng với một công việc, nghĩa vụ cuối cùng là bàn giao lại cho người có nhiệt tình và khả năng.
Nguyên tắc của bạn để làm việc cho tốt gồm những gì?
Covid19 đến đã quá nửa năm, nhưng cũng mới chỉ bắt đầu. Nó sẽ còn diễn biến gay cấn trong vài tháng một năm nữa. Nhưng tình hình kinh tế xã hội sẽ còn gay cấn thêm vài năm sau đó. Một cuộc khủng hoảng tầm cỡ này là chưa từng trải qua và không thể không có tác động trên diện cực rộng trong một khoảng thời gian tương đối dài, từ vài năm đến cả thập kỉ.
Với Covid19, thế giới bước vào thời kì Biến động cực độ (Turbulent), Bất định (Uncertain), Mới chưa từng thấy (Novel), và Mơ hồ (Ambiguous). Trong đó tính chất nhiễu động, bất ổn, lên xuống gập ghềnh theo ngày theo tuần là dễ dàng cảm nhận. Sáng thế này, chiều đã khác. Điều đó tạo ra hiệu ứng rất lớn tới tâm lí của con người cũng như là thách thức đối với bất kể tổ chức nào. Sau biến cố 11-9 ở Mĩ, người ta nhắc nhiều đến VUCA. Nhưng nay thì TUNA sẽ gọi đúng tên tình hình hơn, bởi tính chất nhiễu động ở diện cực rộng và mức độ rất cao.
Chúng ta phải chấp nhận một tiên đề là không còn được sống theo lối chắc ăn, kiểm soát mọi việc. Trong bối cảnh này, chúng ta phải chấp nhận rủi ro, vừa đi vừa dò đường (empiricsim), làm nhanh học nhanh và thích ứng nhanh (be agile), sẵn sàng tích cốc phòng cơ, tăng cường tư duy “xây đập” và gia cố đập để dự trữ, trong khi xây dựng một năng lực bền bỉ (resilience) để đương đầu với khó khăn, trong khi nuôi dưỡng tư duy phát triển (growth mindset) với lối nghĩ kiến tạo (hành động ở thể chủ động tích cực – proactive) để không ngừng tiến về một tương lai rất mù mờ nhưng lúc nào cũng đầy triển vọng. Điều đặc biệt là không quên học hỏi thật nhanh chóng và mạnh mẽ. Không thể lề mề trong bối cảnh TUNA này.
Biển động
Khủng hoảng tạo ra khó khăn, hàng trăm triệu người mất việc, doanh nghiệp mất đi phần nào khách hàng truyền thống. Nhưng nó cũng tạo ra cơ hội cho đổi mới, tạo ra cơ hội làm ăn mới.
Từ một thập kỉ trước, người ta đã thu ngắn thời gian hoạch định chiến lược xuống còn 3 năm vì không ai có thể đoán biết được chuyện gì sẽ diễn ra sau 3 năm. Còn trong bối cảnh Covid19 này thì một số học giả bắt đầu tư duy chiến lượng trong khuôn khổ 18 tháng là dài. Tính linh hoạt và thích ứng sẽ trở thành thống soái.
Chúng ta buộc phải nhìn lại một cách nghiêm khắc hơn với bản thân mình, xem xét lại thực tại, truy vấn các giả định và buộc phải có hành động tích cực thay đổi để tồn tại và chuyển mình.
Hơn lúc nào, ta phải nghĩ khác, làm nhanh hơn và thông minh hơn. Đưa nó thành cốt lõi của lối sống mới ở thực tại mới.
Như đề cập ở bài giới thiệu về Chu trình học tập Kolb và bài “Mỗi Sprint như là một chu trình Kolb“, reflection (suy tưởng, suy tư, phản tư, phản tỉnh) được nhắc đến với vai trò rất quan trọng trong việc học tập và làm việc của người trưởng thành (adult learning). Tuy vậy, việc thành thục kĩ năng reflection, cũng như ứng dụng reflection trong học và dạy học lại không phải là việc dễ dàng. Dưới đây tôi xin liệt kê mấy gợi ý cho việc thực hiện reflection để giúp người mới làm quen với phương pháp này đỡ bỡ ngỡ và thu được kết quả từ một phương pháp học tập thú vị và chất lượng.
Cuốn sách Culture Code (mật mã văn hóa) của Daniel Coyle (tác giả của “Mật mã tài năng” bán rất chạy) giản dị mà hay. Không ôm đồm nhiều thứ, tác giả mong muốn chắt lọc ra vài yếu tố cốt yếu để các nhóm làm việc đúng là “nhóm cho ra nhóm”. Ba yếu tố được viết tắt là SVP; gọi là mật mã văn hóa. Phạm vi là “nhóm”, không phải là “văn hóa tổ chức” rộng lớn và phức tạp hơn.
Sau khi xem xong một video TED talk hay, học một bài học trên một nền tảng học tập trực tuyến, hoặc thậm chí là tham gia một khóa học trực tiếp, bạn không nên khép lại ngay (kể cả khi bạn đã vượt qua được các bài kiểm tra và nhận chứng chỉ hoàn thành khóa học), mà thực hiện một thao tác “đóng gói” cuối cùng để thực sự kết thúc khóa học. Đó là thao tác viết một bài reflection. Đây là cơ hội tuyệt vời để bạn củng cố lại những kiến thức đã học, lưu nó lại dưới dạng văn bản, và học hỏi sâu thêm, cũng như mở ra một vài hướng đi tiếp theo (học thêm, hoặc đem kiến thức ra áp dụng).
Báo đài đưa tin, ” JAL Covid-19 Cover” là dịch vụ mới nhất của Japan Airlines (JAL), áp dụng miễn phí cho mọi hành khách trên các chuyến bay quốc tế của hãng. Theo đó, hãng kết hợp với đơn vị lữ hành Allianz, đảm bảo chi trả chi phí xét nghiệm, y tế và chi phí cách ly trong trong trường hợp hành khách có kết quả xét nghiệm dương tính với Covid-19 trong suốt hành trình. “ [4], “Dù COVID-19 có gây thiệt hài về tài chính đến đâu, Japan Airlines cũng phải tuân thủ triết lý duy trì việc làm và giữ cho người lao động hạnh phúc.” [5]. JAL tìm mọi cách để bảo toàn lực lượng lao động của mình, từ việc gọi thêm vốn để có thêm tiền duy trì kinh doanh, tiến hành cải tổ và sẵn sàng vượt lên sau đại dịch, cho đến việc gửi nhân viên của mình sang một số đối tác theo các hợp đồng “cho mượn”. Mục đích cuối cùng là không để nhân viên thất nghiệp, trong bối cảnh ngành hàng không điêu đứng vì Covid, hàng trăm ngàn người mất việc. Đối với người chưa để ý thì hành động của JAL hơi lạ. Nhưng với người theo dõi JAL nhiều năm nay thì sẽ thấy nó chỉ đang trung thành với triết lí mà nó đã theo đuổi và đã giúp hãng hàng không quốc gia này vượt qua sóng gió của cơn khủng hoảng tài chính hơn một thập kỉ trước.