Chúng ta hay thảo luận về chương trình giáo dục nhưng không mấy khi định nghĩa thế nào là chương trình giáo dục, và thế nào là một chương trình giáo dục tốt. Khi không xác định rõ, có thể người giáo viên (có thể rất giỏi) sẽ vẫn cứ làm thật tốt công việc của mình, nhưng tựu chung lại, sinh viên ra trường lại không giống như chúng ta kì vọng, và lại càng khác xa xã hội kì vọng, và không giống tưởng tượng ban đầu của sinh viên. Tổng gộp các tối ưu hóa cục bộ không chắc mang lại hiệu quả. Đặt vấn đề về chương trình, tức là ta đang cố gắng tối ưu hóa toàn cục để tìm được những “giải pháp chỉnh thể”, căn cơ, thay vì những đổi mới lặt vặt. Hãy nhớ lại bộ tranh hí họa ở dưới, luôn có những khoảng cách giữa kì vọng và thực tiễn, đặc biệt là ở những chu trình phức tạp (như giáo dục) cùng với việc thiếu vắng sự cộng tác hiệu quả.
Dưới đây là một dự án học tập đã viết thành sách. Trên trang của Viện giáo dục Buck, có hàng tá dự án kiểu này, với đầy đủ đề cương, thiết kế, tương thích chuẩn đầu ra (learning outcomes/standards), và kết quả đạt được của học sinh, kèm theo (đôi khi) là phân tích của giáo viên để rút kinh nghiệm sau khi dự án kết thúc. Bạn đọc vui lòng truy cập: http://bie.org/project để biết thêm chi tiết. Xin đừng ngất vì ngợp 🙂
Đây là dự án trong khuôn khổ môn Lịch sử Hoa Kì được tổ chức theo dạng PBL có thời lượng tương đương 20 giờ học trên lớp ở trường Trung học Công nghệ mới Napa. Thầy giáo[1] nêu vấn đề cho học trò: “Những hình tượng (archetypes) nổi bật trong lịch sử nước Mỹ (như hình tượng cao bồi, người Mỹ bản xứ Indian, nô lệ, các tín đồ,..) vẫn thể hiện giá trị của chúng ta hiện nay?”. Học sinh được đưa vào tình huống để trở thành những nhóm chuyên viên tiếp thị cho những tập đoàn thực phẩm lớn, xem xét lựa chọn một nhân vật tượng trưng để thúc đẩy các nỗ lực quảng cáo và bán hàng. Học sinh sẽ phải nghiên cứu các đặc điểm lịch sử của các hình tượng, sau đó xác định những đặc điểm của hình tượng phù hợp với nước Mỹ hiện đại và hấp dẫn người tiêu dùng. Mỗi nhóm trình bày kết quả nghiên cứu của mình và đưa ra những kiến nghị. Kết thúc dự án, học sinh sẽ phải báo cáo quá trình nghiên cứu tài liệu, báo cáo khảo sát khách hàng tại siêu thị; thuyết trình trước lớp và giáo viên về kết quả của dự án. Đây chính là cách giáo viên đưa các kiến thức về lịch sử trở lên sống động và có ý nghĩa đối với đời sống hiện nay . Bên cạnh đó, các kiến thức cơ bản về môn học (Lịch sử Hoa Kỳ), và kĩ năng cần thiết (tìm kiếm, đánh giá tài liệu, phương pháp điều tra xã hội học) cũng được học sinh rèn luyện trong quá trình thực hiện dự án nhỏ này. Ngoài ra, học sinh sẽ phải rèn luyện các kĩ năng mềm khác về thuyết trình, làm việc nhóm, sử dụng PowerPoint và các công cụ xử lí ảnh đơn giản để làm các tài liệu marketing. Nếu học sinh nào đi xa hơn, có thể am hiểu chút ít nữa về sự vận hành của một chiến dịch marketing.
—-
[1] Theo “PBL Starter Kit”, BIE xuất bản năm 2009.
Ngành quản trị hiện đại được cho là bắt đầu với Peter Drucker, người vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong mọi ngõ ngách thực hành cũng như nghiên cứu về khoa học quản trị. Chỗ nào cũng có ý kiến của ông, và cái nào cũng như thành nguyên tắc cả.Trong đó có cái mà nó ăn ra cả những lĩnh vực khác là giáo dục. Ở đây xin kể một chuyện có vẻ tương đồng.
Truyền thông đang đưa tin các cuộc bàn luận rất kinh về chuyện tích hợp. Và đỉnh điểm là từ chuyện tích hợp mà lan sang chuyện bỏ môn sử, từ đó lại lan sang ruồng bỏ nguồn gốc, từ đó lan phỏng đoán sang chuyện tương lai đất nước sẽ đi về đâu.
Nhưng không ai hỏi tích hợp là gì? Không định nghĩa thì sao thảo luận được? Và đặt câu hỏi là người ta sẽ thiết kế chương trình tích hợp như thế nào? Hướng đến mục tiêu cụ thể gì (không phải là nồng nàn yêu nước, yêu lịch sử dân tộc…), và “chuẩn bị như thế nào để các thầy cô dạy tích hợp?”, và nữa, “thay đổi như thế tốn bao nhiêu tiền? liệu có đến mấy nghìn tỉ không?”. Vân vân và vê vê.
Thực ra chuyện này đúng là bé xé ra to, cái tiểu tiết phá hỏng cái đại cục. Nhưng thôi, ta sẽ tán chuyện cho nó vui cái xó bếp Tấn’s Notes đang héo úa và khô cằn này.
Xin bắt đầu từ chuyện nấu cơm. Phải nói là mẹ tôi rất giỏi dạy nấu cơm, nên từ 5 tuổi tôi đã có thể nhóm lửa đốt rơm nấu cơm cho ba mẹ con no bụng mỗi buổi trưa mẹ đi làm đồng về (mở ngoặc là thỉnh thoảng cũng làm thủng một hai cái nồi nhôm Hải Phòng có đít mỏng dính hehe). Cho nên, phải nói là chuyện này tôi có nắm được tí chút.
Để nấu được cơm thì cần phải có gạo có lửa có nước có nồi. Nếu dạy nấu cơm kiểu phân môn (ở đây mình dùng từ Phân môn thay vì Phân hóa, vì hiện nay truyền thông đang làm méo mó cái ý nghĩa Phân hóa vốn đã được quen dùng để ám chỉ Differentiate Learning- tức dạy phù hợp với người học về trình độ, đặc điểm, tốc độ và kì vọng – chứ không phải là để chỉ cách dạy theo lối truyền thống là dạy theo môn – Subject) thì sẽ có một môn Lửa học [Có thể thay thế môn Điện học, nếu nấu bằng nồi cơm điện hehe] nghiên cứu lửa có từ bao giờ, do ai làm ra, thành phần thế nào, công dụng của lửa; rồi có thêm một môn nữa là môn Nước học nghiên cứu nước từ đâu mà đến, nước khác lửa thế nào, trong nước có các thành phần hóa học gì, nước có các loại nào, nước dùng để làm gì; rồi lại thêm một môn Gạo học nữa, với ngần ấy nội dung học tập; cuối cùng là môn Nồi học cũng với format tương tự. Nếu dạy không khéo, học ngần ấy các môn nhưng người học vẫn không biết nấu cơm. Nhưng nếu gặp ông giáo tốt bụng thì ở môn Lửa học sẽ học dùng lửa nấu cơm thế nào, đến môn Nước học thì cũng sẽ dạy dùng nước nấu cơm ra sao, nhưng có khi vãn không vận dụng được. Có trường hợp, cả ông giáo Lửa học, lẫn bà giáo Gạo học, và cô giáo Nước học đều sốt ruột với lí thuyết mà vượt rào dạy người học cách nấu cơm. Cuối cùng thì cũng nấu được cơm, nhưng hơi bị mất thì giờ và lại còn mang tiếng là nổi loạn.
Thế dạy nấu cơm kiểu tích hợp là thế nào?
Đơn giản là như này: muốn học cách nấu cơm , thì xắn tay vào nấu cơm luôn. Công thức hóa ra, với ngần này người ăn thì bao nhiêu gạo, bao nhiêu nước, lửa đun to nhỏ thế nào, ủ bao lâu, thế nào là đạt. Không dài dòng lê thê gì cả. Sau này nhớn tự tìm hiểu các khoa học Lửa, Nước, với Gạo và Nồi. Học như thế gọi là học cách giải quyết vấn đề (làm sao để nấu được cơm), học qua làm việc (learning-by-doing), và rất thực dụng (pragmatic), hướng mục tiêu (outcome-based learning, ở đây là hướng đến “kĩ năng nấu cơm”). Trực tiếp, giản tiện, và đỡ mất thì giờ.
Năm 2008, Dave Cormier ở University of Prince Edward Island và Bryan Alexander ởNational Institue for Technology in Liberal Education bắt đầu sử dụng thuật ngữ MOOCs (Massive Open Online Courses – Các khoa học mở miễn phí trên mạng) để chỉ một loại hình học tập mới của đào tạo từ xa (distance learning)…
Sau khi cho cô con gái nhỏ ngủ xong xuôi, Đới – một giảng viên các môn lập trình của Đại học FPT – bắt đầu bật chiếc laptop Asus đời cũ lên, cắm tai nghe và bắt đầu ghi âm tạo clip bài học mới cho những ngày tiếp theo. Anh sẽ tải video clip ngắn về một kĩ thuật lập trình Java nâng cao này lên YouTube. Học trò của anh sẽ xem bài giảng trước khi đến lớp để có thể tích cực tham gia các thảo luận sôi nổi trong lớp học, để có được nhiều ý tưởng mà hỏi thầy, và để sớm hoàn thành được dự án mà thầy đã giao từ đầu khóa học. Trong khi thu âm, Đới phải hết sức nhẹ nhàng để tránh làm mất giấc ngủ ngon của con gái. Đôi khi tiếng chó sủa từ bên nhà hàng xóm lẫn cả vào clip.
Gần đây rất nhiều báo nước ngoài bình luận về kết quả công bố trong một báo cáo rất công phu hơn 200 trang của OECD có tên “Học sinh, máy tính và sự học: Tạo lập kết nối” công bố cuối tháng 9 vừa qua. Rằng thì là hóa ra trong lớp học máy tính chẳng được cái việc gì.
Thực ra điều này không có gì là quá lạ lẫm với các nhà sư phạm.
Báo cáo nhận định “Việc dùng máy tính có giới hạn trong trường học có thể dẫn đến kết quả tốt hơn so với không dùng chút nào, nhưng việc sử dụng quá nhiều (vượt mức trung bình của các nước OECD) lại có biểu hiện thành tích học tập giảm sút nghiêm trọng”.
Báo cáo cũng nhận định: “Kết quả học tập chỉ tốt hơn trong một số bối cảnh cụ thể, trong đó phần mềm và việc kết nối Internet giúp gia tăng thời gian học tập và thực hành”. Tức là công nghệ chỉ phát huy khi dùng đúng cách.
Báo cáo này có thể vùi dập những mộng tưởng nhiệt thành của cộng đồng vốn là “fan cuồng” của công nghệ với niềm tin tuyệt đối vào những tiềm năng đổi thay giáo dục nhờ công nghệ. Nhưng mặt khác, nó cũng đã hé lộ những lối đi khả dĩ cho một đường lối tiếp cận đúng đắn cho vấn đề tận dụng công nghệ trong việc đổi mới và cải thiện chất lượng giáo dục.
Báo cáo này buộc chúng ta phải tư duy lại về việc tích hợp công nghệ vào giáo dục.
Đọc báo cáo ở đây: OECD (2015), Students, Computers and Learning: Making the Connection, PISA, OECD Publishing.
Bài liên quan: Hiện đại hóa giáo dục là hiện đại hóa cái gì?
Bẵng đi mấy tuần kể từ ngày khai giảng, tôi mới có dịp ghé qua nhà hỏi han tình hình đứa em họ đang học một trường cao đẳng tạm gọi là khá ở Hà Nội. Căn phòng trọ mươi mét vuông điển hình của giới sinh viên nghèo, cấu hình đơn giản gồm một bàn học và cái giường ngủ chung; có khá hơn lứa sinh viên những năm đầu thập kỉ trước là cái tủ lạnh cũ do gia chủ cho mượn tạm và đường truyền Internet. Như nhiều sinh viên khác, cậu em không cần sắm cho mình một tủ sách vì “chẳng cần đọc sách, cũng chẳng thích đọc”, rất điển hình của thế hệ @, mọi việc cần cứ gọi Google là xong hết.
Hỏi han chuyện học hành, thấy cu cậu có vẻ khoái lắm. Háo hức làm bài, háo hức nộp bài và lo lắng chờ báo điểm. Có vẻ cậu đã hòa nhập nhanh với môi trường sau phổ thông. Lúc dẫn cu cậu vào trường, cái tôi lo nhất là cậu không thích học; giờ thì đỡ được khoản ấy. Nhưng hỏi kĩ lại đâm lo mối khác. Trong ba-lô in hình logo rất đẹp của trường, cậu để ở đấy phần lớn gia tài của mình gồm một chiếc bút, cái máy tính xách tay bố mới mua cho và ba quyển vở ô li còn thừa từ hồi học phổ thông chưa dùng hết. Sách giáo trình rất đẹp mua của trường thì bỏ chỏng chơ trên giường. Hỏi sao không đọc, cậu bảo “thông tin có hết trên slide”, sách chứa toàn cái biết rồi. Giật mình, tưởng cậu em giỏi quá, vào nhầm trường. Mở sách ra kiểm tra đôi chút hóa không phải, cậu chẳng thể phân biệt nổi mấy khái niệm cơ bản vừa học xong. Nhưng điều đó rõ ràng là không hệ trọng đối với cậu, vì mọi thông tin để làm bài quiz có hết trong slide rồi. Rõ là đọc slide ngắn hơn và dễ chịu hơn nhiều so với đọc sách. Mở vở ra thì thấy lơ thơ vài dòng chữ. Hỏi “còn ghi chép thêm gì lên máy không”, đáp “không, cần gì, mở slide ra là có hết rồi, chép lại làm gì”. Hóa ra cu cậu không biết cách ghi chép, không biết cách tổ chức thông tin, cũng không biết cách đọc, hay nói nôm na đại khái là: không biết cách học. Tôi bắt đầu lo, nhưng không chỉ cho riêng cậu em, mà lo cả cho trường cao đẳng mà tôi đã đặt niềm tin vào đấy.
Ở môi trường cao đẳng – đại học, chúng ta mặc nhiên thừa nhận “sinh viên phải tự học” như là cái hiển nhiên phải thế. Các thầy cô giáo cũng thường xuyên nhắc nhở sinh viên phải tự học. Lời nhắc nhở thì không sai, nhưng công tác giáo dục chỉ dừng ở chỗ ấy thì lại có vấn đề. Vì cách nghĩ ấy thừa nhận khả năng tự học ở sinh viên là đã có sẵn, đã “đủ dùng”, trong khi thực tế lại không được như vậy. Tự học là một quá trình, năng lực tự học phải do rèn luyện mà có chứ không tự nhiên thành. Khổ thân em tôi, chưa kịp học bơi mà đã bị nhà trường quẳng hẳn ra giữa dòng nước xiết!
Trong giáo dục hiện đại, vấn đề tự học được quan tâm không phải là ít. Tổ chức P21 (Partnership for 21st Century Skills[1]) thậm chí còn gom kĩ năng học tập và sáng tạo là một trong bốn nhóm kĩ năng cơ bản không thể thiếu của công dân thế kỉ 21. Còn các nhà sư phạm thì từ lâu đã nghiên cứu và ứng dụng khái niệm về siêu nhận thức (metacognition) – là những hiểu biết và kĩ năng để làm chủ việc học của chính mình, nói nôm na là biết cách học. Theo Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Hoa kì (2010), việc tích hợp các kĩ năng siêu nhận thức vào trong chương trình học là một việc quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả của công tác giảng dạy[2]. Với việc sở hữu năng lực siêu nhận thức, sinh viên biết được năng lực của mình giới hạn đến đâu, nhiệm vụ học tập nào là phức tạp hay đơn giản, và có thể biết được năng lực của mình về vận dụng các chiến lược học tập khác nhau. Bên cạnh nỗ lực của chính sinh viên để tự mình phát triển năng lực này ở bản thân, tìm ra cho mình được cách học hiệu quả nhất, người thầy hoặc nhà trường phải đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc trực tiếp có các chương trình đào tạo kĩ năng tự học, hoặc tích hợp các kĩ năng này vào trong từng môn học cụ thể với những biện pháp thực hành đặc thù. Được như vậy thì nhà trường có thể yêu cầu sinh viên tự học mà không khiến các em phải “bơi” quá sức mình, dễ “chết đuối” hoặc bỏ cuộc giữa chừng.
Chúng ta đã thống nhất giả sử lên đại học sinh viên phải tự học là chính. Thế thì, nếu ví tri thức như cá, tự học là cái cần câu, và người học là người đi câu, thì điều hết sức quan trọng không phải là tìm mọi cách hay dùng thật nhiều công nghệ tân tiến để nhồi tri thức vào đầu học sinh, mà phải trang bị cho sinh viên cái cần câu thật tốt. Người thầy và nhà trường cần dạy cho sinh viên học cách học trước đã.
Dương Trọng Tấn (Đăng Đa Diện 2014)
[1] www.p21.org
[2] Theo “How People Learn: Brain, Mind, Experience, and School”, 2010, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ
Tìm kiếm
Sách mới: Tư duy thiết kế cho mọi người
Bài viết mới
Đang được chú ý
Chuyên mục
- Agile Mindset (148)
- Chuyện đời (22)
- Công nghệ (14)
- Đọc (74)
- Sách (46)
- Giáo dục (197)
- Constructivism (5)
- Học cách học (35)
- Khai phóng Giáo dục (19)
- Tu thân (5)
- Khác (15)
- Lean Startup (15)
- Linh tinh xòe (53)
- Lan man (24)
- Quản trị mới (57)
- COVID19 (9)
- Tài nguyên (2)
- Tri thức và Nhận thức (17)
- Xã hội tri thức (23)
- Tổ chức học tập (20)