Tôi về làng ăn cưới, lại được chứng kiến 2 việc rất đáng suy ngẫm liên quan đến mấy chiếc cọc. Việc 1: chiếc xe 45 chỗ chở anh em cùng cơ quan của chú rế từ Hà Nội về ăn cưới va vào cọc chắn ở đầu làng, vỡ hết cả chiếc chắn bùn. Biết không thể vượt qua đành phải thả khách xuống ở đầu làng giữa cái nóng chang chang giữa chiều hè. Khách đi ăn cưới thì áo quần xúng xính, lội nắng đi vào, thật hơi vất vả. Việc 2: chiều hôm sau, do sơ suất của trẻ nhỏ, một xưởng mộc bị cháy dữ dội. Xe cứu hỏa được điều đến kịp thời, nhưng bị tắc ở hai cái cọc chắn vì xe to quá. Phải mất mười lăm phút sau mới đến được hiện trường. Chừng ấy phút đủ để lửa xơi tái cả cái xưởng, suýt chút nữa thì xơi luôn cả nhà hàng xóm, ngay cả khi trước đó cả xóm đã huy động hết xô chậu, vòi nước để dập lửa. Nguyên cớ của sự tồn tại của mấy chiếc cọc kia là như thế này: Chẳng là dân làng hò nhau đóng tiền (chứ không phải tiền nhà nước) để làm đường, đẹp từ trong ngõ ra đến đường lớn. Nhưng xe pháo thấy đường đẹp cứ hò nhau đi qua mà không thèm “đóng một tí phí” nào; xe lại to, chẳng mấy chốc mà đường hỏng, dân làng lại phải làm lại. Thế là hò nhau cấm, cách dễ nhất là đầu mỗi đường xây hai cái cọc bê tông cao năm chục phân, cách nhau hơn hai mét, chỉ đủ xe nhỏ đi qua. Giờ thì mấy chiếc cọc đổ đốn sinh ra phản chủ.
Rất nhiều người hiện đang giữ một niềm tin rất vững chắc rằng: bạn chẳng thể nào thay đổi bản chất hay tính cách suốt cuộc đời, cho nên không phải cố thay đổi làm gì. Thật là sai lầm hết sức.
Các nghiên cứu về não bộ gần đây cho thấy tính “mềm dẻo” của não người là rất lớn, và nó thay đổi cho tới lúc người ta về chơi với giun dế. Ngay cả những công nghệ như Internet, Facebook, Google cũng khiến cho hoạt động của não bộ thay đổi đến ngạc nhiên; điều này được Nicolas Carr bàn kĩ trong cuốn “Trí tuệ giả tạo” bán chạy. Còn nhà tâm lí học ở Standford, Carol Dweck, trong tác phẩm cực kì quan trọng của mình “Mindset – The new psychology of success”, đã phát triển học thuyết về Mindset, dựa trên các nghiên cứu cho thấy con người hoàn toàn có thể phát triển trong suốt cuộc đời, và việc phát triển tư duy có thể được thực hiện liên tục từ lúc còn nằm nôi cho tới khi xuống lỗ. Cách phân biệt “Fixed mindset” và “Growth mindset ” của giáo sư Dweck đang đặt nền móng khoa học sâu sắc cho niềm tin về việc học tập suốt đời và sự làm chủ cuộc đời cho những người làm giáo dục-đào tạo trên toàn thế giới. Nếu chúng ta tin rằng không thể phát triển con người mình, không thể thay đổi được chính mình, thì việc gì phải học, cần gì phải có nhà trường?
Chúng ta có thể tin về một sự tất định sẵn có từ trong gen hay từ đấng siêu nhiên, hoặc tin vào bản thân với sự nỗ lực và học tập không ngừng nghỉ. Mỗi người chúng ta có một cái đầu tự do, cho nên không ai quyết định hay tin thay chính mình được. Sự lựa chọn ấy tất sẽ dẫn chúng ta đi trên những con đường khác nhau, đến những cái đích khác nhau. Nhưng quan trọng hơn, nếu chúng ta có thể lựa chọn đường lối “tự làm nên chính mình”, tức là chúng ta đã thực sự cao hơn một bậc trong cái thang làm người-cá-nhân.
Con gái nhớn dạo này đang cùng lúc học hai chương trình ngoại ngữ có sử dụng công nghệ giáo dục: chương trình Time2Know của người Do Thái (học kiểu blended tại trung tâm: tự học với máy tính, vừa học với giáo viên), và Duolingo miễn phí trên iPad. Chúng cùng có một đặc điểm chung: học thông qua việc làm các bài test, vượt qua các bài test là cách để lĩnh hội kiến thức và phát triển kĩ năng. Các bài tập được thiết kế dưới dạng câu hỏi các kiểu (multiple choice, true/false, điền từ vào chỗ trống, lặp lại phát âm, dịch …), có trợ giúp (từ điển, gợi ý). Các câu hỏi/bài tập không nhằm kiểm tra, mà nhằm giúp người học tự học thật hiệu quả.
Toàn bộ quá trình học tập dựa trên các hoạt động “làm bài tập” kiểu “thi” này. Tôi gọi đó là Test-Driven Learning, nhại một chiến thuật rất phổ biến trong phát triển phần mềm: Test-Driven Development. Theo phương pháp TDD này, các lập trình viên phải hình dung trước các kết quả, sau đó thiết kế các tình huống để kiểm thử (test case) cho mỗi tính năng của phần mềm, khi việc hiện thực hóa các chức năng vượt qua được các tình huống này, việc lập trình coi như xong. Chiến thuật này không những giúp chất lượng phần mềm tăng cao, mà còn dễ dàng được tự động hóa công tác kiểm tra chất lượng thông qua tự-kiểm tra, với sự trợ giúp của các công cụ kiểm thử tự động hóa.
Hai chiến thuật TDL và TDD có sự giống nhau đến kì lạ: chúng đều hướng tới việc tự làm (tự học vs. tự kiểm thử), đạt được kết quả (kiến thức vs. chức năng) thông qua một quá trình lặp đi lặp lại các công việc để vượt qua các bài kiểm tra (test case) đã được thiết kế trước.
Tôi đã thấy TDL được dùng rộng rãi trong việc học ngoại ngữ, học toán sơ cấp (trên Khan Academy), liệu có thể mở rộng chiến thuật này cho các môn học khác, ở các cấp độ khác không?
[Đọc Phạm Quỳnh, nhiều chỗ tôi như gặp lại cái giọng biện luận của Fukuzawa Yukichi trong “Khuyến Học”. Dưới đây tôi chép ra một bài mà tôi rất thích, đăng trên Nam Phong tạp chí năm 1917, tức gần một thế kỉ trước. Nay đọc lại, thấy có rất nhiều điều thú vị và đáng suy nghĩ]
THẾ LỰC CỦA ĐỒNG TIỀN
Phạm Quỳnh.
Hai chữ kim tiền lầm người đời.
Một nhà văn sĩ nước Anh có nói một câu nửa hoạt kê nửa châm biếm rằng: “Tôi có một đồng xu trong túi là tôi làm vua thế giới trong vòng một xu”. Lời đó cực tả cái thế lực vô hạn của kim tiền.
Đồng tiền vẫn là có thế lực, mà đời nay lại là có thế lực lắm nữa, có thể nói cái thế lực đồng tiền bây giờ là cái thế lực mạnh hơn hết thảy, dù phép vua, dù lệ làng, dù lẽ cương thường, dù sức phong tục, cho đến lòng danh dự, sự ái tình là hai cái động cơ rất mạnh của người ta, cũng không gì là địch nổi, cũng không gì là mạnh bằng.
Bởi đồng tiền có thế lực vô song như vậy, nên người đời yêu, quí, trọng, thờ đồng tiền không gì bằng. Đồng tiền đã thành một vị thần tối linh ở đời này. Cái thần Tài là cái thần ngày nay cả thiên hạ đều sùng bái, dù bên Tây, dù bên Đông cũng vậy, mà nhất là cõi Nam thổ ta trong giữa thời đại bây giờ, vì ở đây sự sùng phụng, lòng tôn kính cái vị thần mới ấy thật đã đem đến cực điểm, và cách thờ thần cũng thật ngoan, thật khéo không đâu bằng.
Nay ta thử xét bởi sao mà đồng tiền có cái thế lực rất lớn, rất mạnh như vậy, và cái thế lực ấy có phải là chánh đáng không, cùng người ta đối với đồng tiền phải nên thế nào, nên cam tâm làm nô lệ, hay nên rõ mặt làm chủ nhân, nên để cho đồng tiền nó khiến mình hay nên ra tay khiến được đồng tiền. Bàn cho vỡ lẽ mấy điều đó tưởng cũng là một việc có ích cho phong hóa, giữa buổi trong quốc dân lòng trục lợi đương thịnh hành, làm mờ ám cả lương tâm.
Kant có câu trứ danh “Sapere aude!” (Dare to be know/Dare to be wise) để chỉ cái bản chất “khai sáng” (khai minh) của thời đại cùng tên. Người ta dám hỏi để tự mình biết lấy, tự mình tin lấy, thay vì được ấn định chân lí từ kẻ khác. Cơ sở của niềm tin vào tính chân lí phải là minh chứng (evidence) đáng tin, chứ không phải bởi nó được thốt ra từ miệng ai khác.
Đó cũng là lúc người ta bắt đầu với “tự do tư tưởng”, bắt đầu được giải phóng. Đó là thời điểm con người bước ra từ bóng tối ngu muội.
Xem ra Kant đương đại hơn cái vẻ “cổ điển” của ông.
Một bác nông dân chăn cừu nhìn sang đồng bên cạnh, thấy một cái lùm lùm xù lên như là lông cừu. Bác bảo với vợ là “đồng bên cạnh cũng có cừu rồi”. Kì thực cái bác nhìn là một cái áo lông cừu của ai đó mắc lên bụi cây. Nhưng dưới bụi cây đó, lại có mấy con cừu đang gặp cỏ. Vậy là bác nông dân biết về một sự thật là “có cừu ở đồng bên”, nhưng không phải do bác nhìn thấy.
Đó là tình huống điển hình kiểu Gettier mang tên nhà triết học cùng tên để ám chỉ việc một người đôi khi chỉ vô tình biết được cái gì đó là sự thật, tin nó là sự thật, và có lí do để tin (những điều kiện cơ bản để được gọi là “biết” theo tư duy triết học truyền thống: tính đúng đắn, niềm tin và lí do để tin).
Thật kì lạ là phải đến những năm 60 thế kỉ trước mới xuất hiện các ví dụ kiểu Gettier để phản bác các lí lẽ truyền thống tồn tại cả nghìn năm. Lạ nữa là không có cuốn giáo trình triết học nào in tiếng Việt có nhắc đến các tình huống Gettier như thế này (thì phải?).
Gettier cho thấy: cái chúng ta biết không nhiều lắm, nhưng ngay cả những cái chúng ta chắc chắn là biết có khi lại là do … ăn may!
[Vệt bài “36 kế dạy học thụ động” này chủ yếu để phục vụ trí tưởng tượng của giáo viên]
Vừa vào lớp học, cô giáo Hân hô rõ to: “Mời cả lớp đứng dậy, dọn hết bàn vào góc tường”. Rồi cô vẽ đường biên hình số 8 giống sa hình tập lái xe máy.
Cô nói “Mời các bạn tham gia hai thí nghiệm, và xem thử chúng ta có thể rút ra được điều gì”.
Trong thí nghiệm một, cô yêu cầu các bạn tự lập các cặp, một làm sếp, một nhân viên. Sếp hô thế nào, nhân viên làm như vậy, không sai một li. Khẩu lệnh chỉ gồm “Đi”, “Đứng”, “Trái”, “Phải”. Đi làm sao để không vượt quá đường biên kẻ trước.
Các bạn thực hiện trong 5 phút, với mục tiêu phải đi được 100 bước. Rất nhiều vụ va chạm giữa cặp này với cặp khác hiện ra, khung cảnh rất chi là căng thẳng và hỗn loạn. Sau 5 phút, hầu như không cặp nào đi nổi 100 bước đúng luật.
Trong thí nghiệm hai, cô yêu cầu các cặp đổi chiến thuật, tự mình đi, tự mình đếm, thực hiện đúng luật chơi, đi đến đâu đếm đến đó, không vi vượt khỏi đường biên. Các bạn đi thật nhẹ nhàng, và tạo thành một luồng đều đặn hình số 8 như đường biên đã vẽ ra. Kết thúc 5 phút, mỗi cặp thực hiện được trên 100 bước thật nhẹ nhàng.
Kết thúc thí nghiệm, mỗi sinh viên đều có những quan sát tinh tường:
– Có khi làm việc theo mệnh lệnh một cách cứng nhắc dẫn đến tình hình rất tệ, vừa căng thẳng, vừa lỗi nhiều, và lại không năng suất.
– Đường biên bé quá, nới rộng ra thì sẽ không va vào nhau.
– Có khi để nhóm tự quản lí lại tiện hơn, và năng suất hơn nhiều. Khi nhân viên đã biết cách làm, chỉ cần trao quyền là họ làm được, không cần giám sát từng li từng tí, vừa phí tài nguyên, vừa giảm năng suất.
….
Các bạn đều ngạc nhiên với những điều giản dị nhưng sâu sắc mà họ mới khám phá ra.
Cô Hân chỉ cần tóm lại vài quan sát của các bạn, và yêu cầu mọi người đem đi thí nghiệm ở nhóm khác để quan sát, xem có lặp lại được những điều mà các bạn vừa quan sát thấy không.
Đó chính là cách để cô dẫn các bạn đến với hiểu biết về khái niệm các nhóm tự tổ chức (self-organizing team) vốn rất khó hiểu và khó tin.
Cô giáo Hân chuẩn bị nhiều thí nghiệm như vậy. Đó chính là những bảo bối để cô mang lại trải nghiệm tuyệt vời cho đám học trò thân yêu. Triết lí giảng dạy của cô vẫn nhất quán như vậy: làm sao giảng viên ít làm việc nhất, mà học trò thì học được nhiều nhất, vừa rộng vừa sâu vừa tràn đầy cảm xúc.
_________________
Các phần trước:
Nói về hiện trạng giáo dục của đơn vị, nhiều nhân viên đổ lỗi cho lãnh đạo: Đòi hỏi nhiều mà không chịu chi tiền.
Đề cập về nguồn lực hiện tại, lãnh đạo lại nói: Tiền không thiếu, nhưng nhân lực mỏng lại yếu, không đủ chuẩn.
***
Hỏi nhân viên: vậy phải làm gì?
Nhân viên: Phải làm lại từ đầu, đổ tiền đầu tư.
Hỏi tiếp: Thế bỏ hết những gì anh đang làm à?
Nhân viên: không bỏ được. Vì có đập đi làm lại thì cũng phải sang năm.
Hỏi: Thế giả sử cho anh một đống tiền, anh chi vào đâu trước hết?
Nhân viên: Tôi không biết. Đó là việc của lãnh đạo.
***
Hỏi lãnh đạo: Thế làm thế nào, có loại người không đủ chuẩn đi được không?
Lãnh đạo: nói đuổi thì dễ, nhưng làm thì không khả thi, kiếm đâu ra người. Mà có phải nói đuổi là đuổi được ngay đâu.
Hỏi tiếp: Thế làm thế nào để đủ chuẩn?
Lãnh đạo: Cho đi đào tạo.
Hỏi: Huấn luyện có đủ chuẩn ngay được không? Hay chỉ đủ “chứng chỉ” thôi?
Lãnh đạo: Kinh nghiệm cho thấy là chỉ được cái chứng chỉ, hợp thức hóa, còn đâu lại hoàn đấy. Vì kĩ năng không đến sau một đêm. Cải thiện được đôi chút, nhưng vẫn không thể đủ chuẩn, trừ phi đầu tư lớn cho đào tạo. Nhưng chi lớn như thế thì chết đói mất.
Hỏi: vậy phải chăng khái niệm “Không đủ chuẩn” là có vấn đề?
Lãnh đạo: Có lẽ là như vậy. Để bắt đầu công việc không thể cứ nghĩ phải bỏ hết, phải nâng cấp ngay lập tức. Cuộc sống diễn ra ngay ở đây và bây giờ, chứ không ở trên mây hay chỗ nào khác. Mọi tính toán của ta cũng phải cho việc ở đây, ở thì hiện tại tiếp diễn, chứ không thể khác được.
Nhiều lúc để tăng thêm trọng lượng cho một luận điểm, ta không đủ sức tự nói, mà viện dẫn ý của người khác, thường là một tên tuổi lớn nào đấy. Như vậy không có vấn đề gì.
Nhưng có lúc ta lại hơi râu ông nọ cắm cằm bà kia một tí. Kiểu sang chơi với lũ nhà văn thì lại trích dẫn quan điểm triết học nhân sinh của những nhà toán học, còn chơi với lũ toán học thì lại viện dẫn quan điểm giáo dục của mấy ông nhà văn. Vì toàn tên tuổi lớn nên người vội nghi ngờ ngay, nhất là khi luận điểm ấy hình như nó có vẻ đúng.
Đáng tiếc là không phải lúc nào thuận buồm xuôi gió. Một ông tiến sĩ (thứ thiệt chứ không dỏm) toán học có thể mù tịt về giáo dục tiểu học, nhưng lại rất thích phát biểu về dạy văn lớp 1. Ông cứ phát biểu hoài, khiến người ta có cảm giác ông là tiến sĩ giáo dục học. Rồi người ta mặc nhiên là ông có quan tâm và rất am hiểu. Vậy là, khi người ta cần viện dẫn một trích dẫn cho vừa ý mình, thì cứ lôi ông toán học ấy ra, mà quên mất rằng tên tuổi lớn ấy không có chuyên môn về cái ông ấy đang nói.
Bởi vì mỗi khi chúng ta định nói, là lúc ta đã tính chuyện lừa phỉnh chính mình về cái định nói ra, nhất định nó phải đúng. Khi ấy thì thật là may nếu vớ được ông này ông nọ nói y chang như mình. Thế là cứ bảo “nhà bác học đã nói….”, rất tiện.
PS. Nói đến đây, chắc là lần sau mình sẽ bập bập khi trích dẫn những gì Einstein nói về giáo dục 🙂
[Vệt bài “36 kế dạy học thụ động” này chủ yếu để phục vụ trí tưởng tượng của giáo viên.]
Hôm nay thầy Kim quyết định đổi kiểu. Vận chiếc áo cổ rùa màu đen, chiếu đầu húi cua của thầy càng trở lên nổi bật. Bước vào lớp dưới dự ngạc nhiên của đám học trò, thầy lên giọng như thể đang đứng trên sân khấu lớn: “Như thường lệ, hôm nay tôi sẽ không giảng gì nhiều. Nhưng có cái khác, tôi sẽ độc diễn một chút. Tôi sẽ trình diễn vài chiêu cơ bản để các bạn có thể thấy là làm được một ứng dụng phân tán bằng Java tuy mất công nhưng rất dễ làm. Các em hãy quan sát thật kĩ trước, rồi làm lại thật nuột trước khi chúng ta đi tiếp. Xong bài học này, các bạn có thể kiếm tiền được rồi!”
Thầy Kim giở máy, bật Eclipse lên, từ tốn đi từ bước này qua bước khác, tạo một hệ thống phần mềm chơi tú lơ khơ qua mạng. Chương trình chạy tốt, không vướng một lỗi nào.
Các học trò cứ há hốc mồm, rồi ồ lên sung sướng.
Xong xuôi đâu đấy, thầy ghép các cặp sinh viên lại, yêu cầu các em đọc kĩ 13 bước tạo ứng dụng được hướng dẫn chi tiết trong handout, lập trình theo cặp để hoàn tất ứng dụng như đã demo. Các bạn có tổng cộng 2 giờ để hoàn tất thử thách này. Trong hai bạn, chỉ một người lập trình, còn người kia ngồi quan sát, khớp với handout để giảm thiểu sai sót. Khi xảy ra lỗi, hai bạn dừng lại và trao đổi với nhau để tìm ra phương án, hạn chế hỏi thầy. Cứ 20 phút lại đổi vai một lần.
Thầy Kim chỉ phải can thiệp đôi chút khi có cặp không thể hiểu nổi một đoạn code phức tạp. Phần lớn thời gian thầy chỉ phải “đi tuần” xem các bạn làm gì, thảo luận thế nào, đôi lúc nhắc nhở một hai cặp lơ đãng không tập trung vào làm việc.
Kết thúc, khi tất cả các cặp đều có được ứng dụng chạy tốt, thầy yêu cầu các bạn đứng lên rút kinh nghiệm, đúc kết ra nguyên lí và các bước để tạo lập ứng dụng phân tán.
Trước khi kết thúc giờ học, thầy hỏi: “Các bạn có thể ứng dụng bài hôm nay để làm ra những gì?”
Hàng loạt ý tưởng được bung ra: hệ thống thi trực tuyến, chứng khoán, đặt vé trực tuyến, chơi cờ trực tuyến, chơi caro trực tuyến …
Thầy Kim kết thúc: “Vậy hãy thử ở nhà, và hôm sau đến lớp kể lại xem các bạn đã làm được gì?”
Lớp học kết thúc trong khí thế sôi nổi và ồn ã không ngớt của các bạn sinh viên. Có vẻ như hôm sau sẽ có hàng loạt phần mềm thú vị được trình diễn trước lớp. Thật là hứa hẹn!
_________________
Xem các phần trước:
Tìm kiếm
Bài viết mới
Đang được chú ý
Chuyên mục
- Agile Mindset (147)
- Chuyện đời (23)
- Công nghệ (14)
- Đọc (72)
- Sách (46)
- Giáo dục (179)
- Constructivism (5)
- Học cách học (35)
- Khai phóng Giáo dục (4)
- Tu thân (1)
- Khác (16)
- Lean Startup (15)
- Linh tinh xòe (55)
- Lan man (26)
- Quản trị mới (41)
- COVID19 (9)
- Tài nguyên (2)
- Tri thức và Nhận thức (13)
- Xã hội tri thức (19)
- Tổ chức học tập (19)