Lời mở: Tiếp nối bài trước giới thiệu về Mortimer Adler, bài viết sau đây được trích từ phần Dẫn nhập của cuốn sách “Tuyên ngôn giáo dục Paideia” dịch từ “Paideia Proposal” của ông sắp được xuất bản.  

Đề xướng Paideia

Vào những năm đầu của thập niên 1980, đứng trước tính trạng tụt hậu đáng lo ngại của khoa học – giáo dục Hoa Kì, Mortimer Adler đã lãnh đạo Nhóm Paideia (Paideia Group) gồm một nhóm các nhà khoa học, nhà giáo dục và lãnh đạo doanh nghiệp cấp tiến cùng chí hướng để đề xuất một hướng cải cách giáo dục dưới cái tên Đề xướng Paideia, gồm một tuyên ngôn giáo dục (gói trong Đề xướng Paideia: Một tuyên ngôn giáo dục – chính là tác phẩm chúng ta đang cầm trên tay, khái quát triết lí cơ bản của toàn bộ chương trình cải cách), một thảo luận sâu về những vấn đề có thể gặp phải và cách thức vượt qua (Paideia Problems and Possibilities), và kết tinh ở cuốn sách thứ ba với chi tiết khung chương trình gợi ý (Paideia Program: An educational syllabus – Đề cương chương trình Paideia). Lí tưởng của toàn bộ Đề xướng này nằm ở tuyên ngôn: “nền giáo dục tốt nhất cho những người giỏi nhất chính là nền giáo dục tốt nhất cho tất cả mọi người”.

Mục tiêu chính của Đề xướng Paideia là “truyền cảm hứng cải cách triệt để trong lĩnh vực giáo dục K–12 công lập để vượt qua chủ nghĩa tinh hoa cố hữu trong hệ thống và thay thế hệ thống đó bằng một hệ thống chất lượng xuất sắc, dễ tiếp cận cho tất cả trẻ em”. Hệ thống này không chỉ nhằm mục đích nâng cao chất lượng giáo dục cơ bản mà còn đảm bảo chất lượng đó có thể tiếp cận được với tất cả trẻ em. Chương trình này phản đối mô hình giáo dục phân chia học sinh thành “đối tượng lao động” và “đối tượng học tập và giải trí” của một số nhà tư tưởng tiền bối. Nó cũng phản đối các đường lối giáo dục phân luồng sớm dựa trên quan điểm phân chia học sinh thành các “hạng” như vậy.  Thay vào đó, nó ủng hộ quan điểm của John Dewey, cho rằng tất cả trẻ em trong một xã hội dân chủ đều có cùng một số phận và do đó, nên được hưởng chất lượng giáo dục như nhau. Điều này có nghĩa là “tất cả phải được hưởng cùng một chất lượng giáo dục – giáo dục theo một và cùng một lộ trình, cả cho những người không tiếp tục học đại học và những người sẽ học cao hơn”. Chính ở cái điểm “thống nhất” này mà Adler và cộng sự sẽ phải đối mặt với những phê bình mạnh mẽ.

Giải pháp Paideia cho các sai lầm của giáo dục

Theo Adler, giáo dục đương thời có những “căn bệnh” cần phải chữa: Bệnh thứ nhất liên quan tới quan niệm sai lầm về khả năng giáo dục của tất cả học sinh: Sai lầm cho rằng chỉ một số ít trẻ em có thể giáo dục được và có quyền trở thành những con người thực sự có học vấn cao (do đó phải phân luồng và có nhiều chương trình giáo dục). Căn bệnh thứ hai liên quan tới quan niệm sai lầm về thời điểm hoàn thành giáo dục: Giáo dục không kết thúc trong những năm học cơ bản hoặc cao hơn. Căn bệnh thứ ba liên quan tới quan niệm sai lầm về vai trò của giáo viên: Thật sai lầm khi cho rằng giáo viên không phải là nguyên nhân duy nhất, chính yếu hay chủ yếu của việc học tập. Căn bệnh thứ tư liên quan tới truyền thống dạy và học đã bị phê là quá lỗi thời: đã lên lớp thì chỉ còn thầy giảng – trò chép. Căn bệnh thứ năm liên quan tới quan niệm sai lầm về mục tiêu giáo dục khi cho rằng giáo dục chủ yếu là sự chuẩn bị cho việc kiếm sống.

Trên cơ sở đó, Nhóm Paideia đưa các nguyên tắc cho chương trình giáo dục mới:

  • Về khả năng giáo dục: Mọi trẻ em đều có thể giáo dục được, đều có thể trở thành người có học vấn đầy đủ. Kiên quyết chống các xu hướng phân loại và phân luồng giáo dục.
  • Về thời điểm kết thúc sự học: Giáo dục là một hoạt động suốt đời không chỉ gói gọn trong những năm tháng giáo dục chính quy.
  • Về vai trò của giáo viên: Nguyên nhân chính của việc học là hoạt động trí óc của trẻ, giáo viên là người hỗ trợ quá trình đó.
  • Về loại hình học tập: Nhiều hình thức học tập và giảng dạy, bao gồm huấn luyện và thảo luận sâu, nên được bổ sung cho việc giảng bài. Phải có chương trình học tập và hướng dẫn nghiêm ngặt, chặt chẽ, yêu cầu cao.
  • Về mục tiêu giáo dục: Việc chuẩn bị để kiếm sống không phải là mục tiêu chính của giáo dục, nó chỉ là một trong số ba mục tiêu cơ bản của giáo dục. Hai cái khác là trở thành công dân tốt và sống một cuộc sống trọn vẹn.

Những đặc điểm nổi bật của Chương trình Paideia gồm có:

  • Tính toàn diện: Chương trình xem xét toàn bộ 12 năm học bắt buộc như một đơn vị tích hợp, không chia nhỏ cấp tiểu học hoặc trung học.
  • Mục tiêu và phương tiện thống nhất: Đặt ra các mục tiêu giáo dục giống nhau cho tất cả học sinh và sử dụng các phương tiện giống nhau để đạt được chúng—một chương trình giảng dạy bắt buộc cho tất cả, loại bỏ tất cả các khóa đào tạo nghề chuyên biệt và các môn tự chọn ở các năm cuối.
  • Khung chương trình giảng dạy, không phải chương trình cụ thể: Chương trình không đưa ra một chương trình giảng dạy cụ thể để áp dụng thống nhất, mà là một khung chương trình cho phép xây dựng nhiều chương trình giảng dạy phù hợp với các điều kiện cụ thể của các cơ sở giáo dục khác nhau.
  • Tính chất tổng quát, tự do, nhân văn: Chương trình Paideia tìm cách thiết lập một khóa học “tổng quát, không chuyên biệt; tự do, không nghề nghiệp; nhân văn, không kỹ thuật” để hiện thực hóa chủ trương học tập tổng quát mà mỗi con người nên có (như chữ paideia gốc Hy Lạp đã chỉ rõ).
  • Ba loại hình dạy và học tích hợp: Chương trình học phải bao gồm cả ba loại hình học và dạy, được tích hợp chặt chẽ với nhau.
  • Bổ trợ: Cần có các nỗ lực bù đắp để cung cấp chuẩn bị trước khi đến trường cho một số trẻ em cần và sau đó, trong những năm học, hướng dẫn bổ sung cho những người cần nó.
  • Hiệu trưởng là nhà giáo dục: Hiệu trưởng phải là nhà giáo thực thụ, làm việc với đội ngũ giáo viên và là nhà lãnh đạo giáo dục của họ, không chỉ là cán bộ hành chính chính của trường.

Điểm đặc biệt, không như một số cách diễn giải phổ biến về sau, khi cho rằng chủ trương “quay lại điều cơ bản” hoặc “đọc sách kinh điển” quá chú trọng vào nội dung học tập, Chương trình Paideia có một cách tiếp cận cân bằng về nội dung học tập và cách thức phù hợp. Thông qua ba trụ cột kiến thứcba loại hình dạy và học tương ứng.

Ba trụ cột học tập

Theo đó, trụ cột nội dung học tập thứ nhất là các kiến thức giáo khoa (organized knowledge) được tổng hợp trong sách giáo khoa chính thống thông qua các môn học, với phương thức phù hợp là  (didactic instruction) và tiếp thu kiến thức từ sách giáo khoa, bài giảng của giáo viên. Ngay cả trong phương thức truyền thống này, nhóm tác giả lưu ý các cách thức để làm cho bài học trở nên sinh động thông qua việc đặt câu hỏi, tích hợp khả năng hùng biện, logic, thể hiện sự quan tâm của giáo viên đối với chủ đề, thúc đẩy sự chú ý, suy nghĩ, kích thích trí tò mò và khám phá ở học sinh.

Trụ cột thứ hai liên quan tới các kĩ năng trí tuệ (Intellect Skills) bao gồm  “đọc, viết, nói, nghe, tính toán, giải quyết vấn đề, quan sát, đo lường, ước tính… thực hiện phán đoán phê phán”. Các kĩ năng này được phát triển thông qua thực hành có giám sát và hướng dẫn (coaching) từ phía giáo viên. Kĩ năng tư duy là xương sống của giáo dục cơ bản, chúng tiến triển chậm, tỉ mỉ và kiên nhẫn. Việc huấn luyện kĩ năng tư duy, do đó, phải kiên trì, chi tiết. Giáo viên phải hiểu học sinh, cách họ suy nghĩ và tiếp cận vấn đề, phản hồi kìp thời, phê bình sắc sảo để chỉ ra  tại sao một câu trả lời lại không đúng, từ đó mới giúp học sinh học hỏi và tiến bộ. Kĩ năng tư duy sẽ liên quan tới các môn học và cấp độ khác nhau, đòi hỏi các kỹ thuật huấn luyện khác nhau, phảiluyện tập thường xuyên, đôi khi nhàm chán, là cần thiết” để hình thành thói quen không mắc lỗi. Nó cũng đòi hỏi thời gian và quy mô lớp học đủ nhỏ để giáo viên có thể hiểu cách tư duy của từng học sinh.

Trụ cột học tập thứ ba liên quan tới các kiến thức mở rộng (extended knowledge), thông qua việc cùng nhau đọc và thảo luận các tác phẩm ngoài sách giáo khoa. Đây chính là cách vận dụng ý tưởng của chương trình giáo dục Sách Lớn cho bậc học thấp hơn. Phương pháp chủ đạo là các cuộc đối thoại Socratic tập thể (hay còn gọi là Khám phá Tập thể – Shared Inquiry). Các cuộc hội thoại này có sự dẫn dắt của giáo viên để mang ra thảo luận các ý tưởng và vấn đề cơ bản đã được trải nghiệm. Các cuốn Sách Lớn, hoặc tác phẩm nghệ thuật đóng vai trò như những “vật liệu” để các cuộc hội thoại diễn ra. Giáo viên sẽ dùng kĩ thuật vấn đáp kiểu Socratic (Socratic Questioning) để dẫn dắt học sinh tìm kiếm các câu trả lời, hoặc đặt thêm các câu hỏi có giá trị; nhờ đó lĩnh hội thêm tri thức mới. Giáo viên sẽ không dùng sách giáo khoa cho các phần hội thoại này. Giáo viên, trong vai người điều phối, phải lắng nghe chính xác như khi hỏi, thường xuyên diễn đạt lại ý của học sinh để làm rõ cho cả nhóm. Họ phải đặt câu hỏi một cách hiệu quả, không chấp nhận sự mơ hồ hoặc thiếu mạch lạc, và luôn yêu cầu lý do đằng sau các câu trả lời. Cả giáo viên và học sinh đều phải “chuẩn bị để thay đổi suy nghĩ của mình” và “sẵn sàng xem xét những ý kiến mới”.

Ba trụ cột này cần phải được tiếp cận tích hợp. Có nghĩa là khi dạy các kiến thức có tổ chức trong một môn nào đó, thì cũng phải huấn luyện kĩ năng tư duy liên quan tới môn đó, và phải tổ chức thảo luận khám phá liên quan (nhưng không bị đóng khung trong đó).

Chương trình khung Paideia cũng liệt kê cách tiếp cận cụ thể với các môn cơ bản trong chương trình, gồm Ngôn ngữ và Văn học Anh, Toán học, Khoa học, Lịch sử, Nghiên cứu xã hội, Ngoại ngữ, Mỹ thuật, Thủ công, Tìm hiểu Thế giới công việc, và Giáo dục thể chất.

Do đây chỉ là khung chương trình, nó để cơ hội cho các cơ sở giáo dục tùy biến và phát triển tiếp cho phù hợp với điều kiện và mục tiêu riêng của từng trường, từng đối tượng học sinh của mình.

Trường học Paideia

Về tổ chức trường học, Trường học Paideia không yêu cầu một mô hình duy nhất, nhưng tất cả các trường sẽ có những đặc điểm thiết yếu như: Không có các môn tự chọn, trừ việc lựa chọn môn ngoại ngữ; Không cung cấp bất kỳ khóa đào tạo nghề chuyên biệt nào; Bao gồm toàn bộ 12 năm giáo dục cơ bản; Bao gồm cả ba trụ cột dạy và học ở tất cả các cấp lớp; Bao gồm ba môn học bổ trợ: giáo dục thể chất, đào tạo thủ công và giới thiệu về thế giới công việc; Có sự đảo ngược tỷ lệ thời gian học tập: 60-70% thời gian dành cho tương tác tích cực (huấn luyện, hội thảo), và 30-40% dành cho hướng dẫn thuyết trình không gián đoạn; Đảm bảo cơ hội giáo dục bình đẳng cho tất cả; Quan tâm xem xét sự khác biệt cá nhân: Cung cấp hướng dẫn bổ sung cho những người cần, và mọi người đạt được nhiều nhất có thể tùy theo năng lực cá nhân; Hiệu trưởng là nhà giáo dục thực thụ; Có lịch học linh hoạt và cách sử dụng nhân viên giảng dạy khác biệt.
Để theo đuổi lí tưởng của giáo dục Paideia, hiệu trưởng và nhóm giáo viên chủ chốt phải hiểu rõ Tuyên ngôn giáo dục Paideia, nhận ra tính triệt để của nó, và cam kết thực hiện một loạt thay đổi có thể kéo dài một thập kỷ trở lên. Giáo viên và nhân viên phải đóng nhiều vai trò, được đào tạo chuyên sâu và liên tục, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi. Trọng tâm đào tạo cần phải để ý các môn học mới, huấn luyện và điều hành hội thảo, nâng cao kỹ năng giảng dạy thuyết trình, và giải thích triết lý của chương trình cho gia đình và công chúng.

Thực tiễn và phê bình

Kể từ khi xuất hiện, Đề xướng Paideia (1982) cùng với báo cáo “Quốc gia lâm nguy” (A Nation At Risk, 1983) đã kích hoạt hàng loạt thảo luận sôi nổi và thúc đẩy những dự án cải cách giáo dục tại Hoa Kì. Mặc dù không trở thành một dòng chính hay “khuôn vàng thước ngọc” cho việc cải cách giáo dục, những ý tưởng của Đề xướng Paideia tiếp tục hấp dẫn các nhà giáo dục cho tới tận ngày nay. Xu hướng đặt tiêu chuẩn cao, thống nhất nội dung học tập ở một mức độ nhất định (như cải cách Common Core), cùng với việc nhấn mạnh các kĩ năng mềm (mà sẽ được gọi bằng những cái tên khác nhau như bộ Kĩ năng thế kỉ 21, kĩ năng 4C) tiếp tục nối dài các ý tưởng từ khi  Tuyên ngôn Paideia được công bố.

Một nghiên cứu tổng quan của Richardi (2021) cho thấy việc triển khai Chương trình Paideia suốt từ thập kỉ 1980 cho tới gần đây có thể mang lại nhiều kết quả giáo dục tích cực. Chúng có thể tác động tích cực vào tỷ lệ tốt nghiệp khi học sinh theo học các trường đại học 4 năm và các chương trình cao đẳng 2 năm; gia tăng số lượng học sinh đạt giải quốc gia; gia tăng điểm trung bình; giảm tỷ lệ trượt trong các phần đọc, toán và khoa học xã hội; gia tăng sự hài lòng với trải nghiệm học tập tại trường. Cựu học sinh ghi nhận chương trình có cấu trúc chặt chẽ đã chuẩn bị cho họ học tập suốt đời. Việc sử dụng các hội thoại Socratic có thể nâng cao khả năng tư duy phản biện của học sinh, diễn đạt rõ ràng các giá trị và giải quyết xung đột trí tuệ; giúp cho việc thảo luận sâu sắc và có được tư duy khác biệt. Các hội thoại này cũng cải thiện đọc hiểu và giảm lo lắng, thúc đẩy cơ hội đối thoại bình đẳng. Chúng được coi như là “một phương tiện khả thi để cải thiện sự phát triển nhận thức và xã hội của học sinh trung học”, cho phép đặt việc học vào tay chính học sinh, hỗ trợ họ tìm kiếm, trình bày và phát triển “tiếng nói” của chính mình.

Tuy nhiên, từ phương diện triết lí giáo dục, Đề xướng Paideia của Adler đã vấp phải không ít phê bình. Một trong các phê bình trọng tâm liên quan tới ý tưởng “bình đẳng” mà Adler và Nhóm Paideia nhấn mạnh đi nhất mạnh lại trong chương trình của mình.

Nel Noddings (2018) và các nhà phê bình khác trong đã đưa ra một số luận điểm phê bình đáng chú ý đối với đề xuất của Mortimer Adler về một chương trình giảng dạy đồng nhất cho tất cả học sinh. Theo đó, dường như Adler phớt lờ sự khác biệt cá nhân và sở thích của học sinh khi đề xuất một chương trình học giống nhau cho tất cả học sinh cho đến hết lớp 12, với lập luận rằng điều này nhằm mục đích bình đẳng và duy trì nền dân chủ. Noddings, đứng trên lập trường của John Dewey và Rousseau, mạnh mẽ phản đối ý tưởng này. Dewey tin rằng nội dung học tập không quan trọng bằng phương pháp tìm hiểu và cấp độ tư duy mà nó khơi gợi. Ông nhấn mạnh rằng trí óc là một hoạt động năng động và trí thông minh nên được áp dụng vào “hành động”, chứ không phải vào một năng lực cố định, vô hình. Do đó, trẻ em nên được phép theo đuổi các chủ đề mà chúng thực sự quan tâm, điều này sẽ dẫn đến kiến thức và thái độ phù hợp cho sự phát triển cá nhân và tư cách công dân. Noddings khẳng định rằng “cha mẹ tốt nhất và khôn ngoan nhất không định nghĩa giáo dục bình đẳng là giáo dục giống hệt nhau”. Việc ép buộc tất cả trẻ em vào cùng một chương trình học, bất kể sở thích và tài năng khác nhau của chúng, có thể dẫn đến sự bất bình đẳng. Những học sinh có tài năng phù hợp, hứng thú với tài liệu và có đủ nguồn lực hỗ trợ sẽ học tốt, trong khi những em thiếu hứng thú, tài năng và nguồn lực sẽ bị thiệt thòi gấp đôi, trải qua thất bại trong công việc không phải do mình lựa chọn và bị tước đi những khóa học mà mình có thể làm tốt.

Đây là những lập luận hết sức tiêu biểu để biện minh cho yêu cầu về tính đa dạng, cá nhân hóa chương trình giáo dục; bảo vệ sự lựa chọn và cá nhân hóa trong giáo dục – một đặc điểm đặc trưng đa nguyên rất Mĩ. Như chúng ta thấy, nước Mĩ dưới thời Ronald Reagan, cùng thời kì Adler công bố Đề xướng Paideia, đã từng muốn giải tán Bộ giáo dục. Chuyện đó lại lặp lại dưới thời của hai nhiệm kì của tổng thống Donald Trump gần đây. Nước Mĩ dường như chưa bao giờ đồng thuận trong việc thống nhất một chương trình khung chung cho giáo dục, ngay cả khi đã thúc đẩy chương trình khung Common Core tới 50 tiểu bang. Lập luận kiểu  s rất có tính đại diện: “sự giống nhau đảm bảo sự bất bình đẳng, chứ không phải sự bình đẳng”.
Trong khi những đòi hỏi về tính thích ứng của chương trình giáo dục là hết sức thỏa đáng về mặt khoa học, những phê bình mạnh mẽ như Noddings dường như bỏ quên nguyên tắc có tính chất “bộ khung” của Chương trình Paideia (nó chỉ như một framework), và việc Adler nhấn mạnh yếu tố phải có “bổ trợ” và tùy biến cho phù hợp với điều kiện của học sinh có điều kiện khác nhau (trong khi vẫn đảm bảo một chương trình chung có chất lượng cao nhất). Chính sự tranh luận này cho chúng ta thấy sự phức tạp của giáo dục, những thách thức chằng chịt khi thực hiện cải cách giáo dục. Một đề xuất được đưa ra để giải quyết những vấn đề nhức nhối, nhưng có khi lại rất khó thực thi, và có khi lại tạo ra những vấn đề mới.

Dương Trọng Tấn.