Dạo này cứ ngẩn ngơ vì tiếc một cuốn sách hay bị một người bạn làm mất, cuốn “How People Learn”. Định mua lại nhưng tiếc tiền nên chưa dám nhấn nút. Nhân chuyện đọc một tác phẩm quan trọng khác, cuốn “How learning works”, mình có rút ra đây vài điểm mấu chốt để so sánh và review:
***
Cuốn thứ nhất
Dựa trên các nghiên cứu về não bộ, tư duy & tâm lý, sách có đưa ra các nguyên lý để từ đó các nhà giáo dục vận dụng vào việc tổ chức dạy và học.
Các key findings là:
1. Sinh viên đến lớp học với hiểu biết trước đó về thế giới. Nếu kiến thức đó không được quan tâm đúng mức trong tiến trình học, họ có thể thất bại trong việc thu nhận các khái niệm mới hoặc có thể họ sẽ học để đỗ trong kì thi và quay trở lại trạng thái ban đầu sau khi ra khỏi lớp học.
2. Để phát triển năng lực, sinh viên phải:
a) có được kiến thức nền sâu sắc
b) hiểu biết về các dữ liệu thực tế và các ý tưởng trong ngữ cảnh của một khung khái niệm (conceptual framework)
c) tổ chức kiến thức hữu hiệu để có thể mang ra áp dụng
3. Một cách tiếp cận giảng dạy “siêu nhận thức” (metacognitive) có thể giúp đỡ sinh viên học tập và theo dõi quá trình học tập của họ thông qua việc xác định các mục tiêu học tập, kiểm soát tiến trình hướng đến mục tiêu đó.
Thông qua các nhận định trên, các tác giả có đưa ra các khuyến cáo cho nhà giáo:
1. Nhà giáo phải nắm được và “xử lí” hữu hiệu với các dữ liệu về hiểu biết của người học trước khi họ đến lớp
2. Nhà giáo phải giảng dạy thật kĩ lưỡng, cung cấp nhiều ví dụ thực tiễn về cùng một khái niệm và cung cấp nền tảng vững chắc về kiến thức thực tế tới người học.
3. Việc truyền dạy các kĩ năng “siêu nhận thức” nên được tích hợp vào trong chương trình, phù hợp với từng lĩnh vực.
Cuốn sách là một công trình khảo cứu công phu, nghiêm túc chỉ ra các dữ liệu khoa học thực nghiệm quan trọng về việc học. Hơn thế, nó còn cung cấp nhiều chỉ dẫn hữu ích cho người thực hành giáo dục. Tuy nhiên, sách hơi “khô”, mặc dù có rất nhiều thông tin hữu ích về quy luật tâm lí, cách phân biệt Novice-Expert, v.v. nhưng các kết luận hơi bị giàn trải. Các nhược điểm này dường như được bổ khuyết trong một công trình quan trọng khác, cuốn “How learning works”.
***
Cuốn thứ hai
Cuốn sách có cách tiếp cận có phần mainstream hơn, dễ theo dõi hơn: thông qua việc đặt câu hỏi, và trả lời các câu hỏi đó. Và, lời chỉ dẫn cũng có phần cụ thể, tiện cho việc thực hành hơn. Điều lí thú là, đây cũng là kết luận của một công trình khảo cứu thực nghiệm chứ không phải một cuốn cẩm nang (manual) với các chỉ dẫn “từ trên trời rơi xuống”.
Theo cách đó tác giả đưa ra một khung khái niệm trừu tượng không phụ thuộc ngành nghề, kinh nghiệm hay văn hóa, với bảy nguyên lí để trả lời câu hỏi “How learning works?”, bao gồm:
- Kiến thức trước khi người học tới lớp có thể trợ giúp hoặc cản trở việc học tập.
- Cách thức người học tổ chức kiến thức sẽ ảnh hưởng đến cách họ tìm hiểu và ápdụng những gì họ biết.
- Động lực của người học sẽ quy định, định hướng, và duy trì những hành động học tập.
- Để phát triển sự thông thạo, người học phải có kỹ năng thành phần (component skills), thực hành tích hợp chúng,và biết khi nào để áp dụng những gì họ đã học được.
- Các biện pháp thực hành hướng mục tiêu cùng với các thông tin phản hồi có mục đích sẽ nâng cao chất lượng học tập của người học.
- Môi trường xã hội, xúc cảm,và trí tuệ có thể ảnh hưởng đến cấp độ phát triển của người học.
- Để trở thành người học tự định hướng, người học phải học để theo dõi và điều chỉnh phương pháp tiếp cận học tập.
****
Các quan điểm của cuốn HLW có vẻ trùng hợp nhiều với tác phẩm của Ken Bain, cuốn “What the Best College Teachers Do” mà tôi đã có dịp trích dẫn.
Cả ba cuốn đều lấy sinh viên làm trung tâm cho cách hoạt động giáo dục, lấy việc học làm chủ đạo trong các thiết kế – triển khai của người làm giáo dục. Họ không tiếp cận kiểu “hai tốt”, dường như họ muốn nói giáo dục tức là chỉ một việc thôi “học tốt”, các việc khác đều là hỗ trợ cả.
Nhân chuyện rà soát lại cái ý tưởng “Agile Education”, mình muốn soi lại các best practices trong giáo dục sau phổ thông. Và lẽ thật tự nhiên là phải soi lại cái “Bảy nguyên lí” rất nối tiếng (Seven Principles for Good Practice in Undergraduate Education) và có ảnh hưởng được đề xuất bởi Arthur W. Chickering và Zelda F. Gamson.
Trên mạng tiếng Việt hiện nay có nhiều báo online đăng lại bài viết của một vị học giả Lê Văn Hảo đã đăng trên tạp chí Tia sáng (ví dụ: http://www.tienphong.vn/giao-duc/148808/Bay-nguyen-tac-day-tot-o-bac-dai-hoc.html) . Tuy nhiên, bài viết này đề cập tới các practice cụ thể của việc dạy – chỉ là một khía cạnh hẹp trong đề cập của Chickering và Gamson. Các nguyên lý của họ là để hướng dẫn cho cả tổ chức giáo dục, lẫn các nhân viên của nó – trong đó giáo viên là lực lượng nòng cốt – trong thực hành giáo dục bậc đại học.
Vì không có bài dịch tác phẩm gốc nên tôi tạm dịch phần tóm tắt, quẳng vào đây để tiện thao khảo về sau. Do dịch vội nên câu cú có thể hơi thô lậu, vô cùng xin lỗi bạn đọc.
___________________________________
Bảy nguyên tắc thực hành tốt trong giáo dục Đại học
Arthur W. Chickering và Zelda F. Gamson
1. Khuyến khích tương tác thầy-trò
Việc tiếp xúc thường xuyên giữa thầy và trò trong cũng như ngoài lớp học là yếu tố quan trọng nhất trong việc động viên và thu hút sinh viên vào các hoạt động học tập. Người thầy quan tâm đến việc trợ giúp sinh viên vượt qua được những khó khăn để bước tiếp. Việc quen biết các giảng viên có thể giúp gia tăng sự gắn bó với học thuật và khuyến khích họ suy nghĩ về các giá trị riêng của họ cũng như các kế hoạch trong tương lai.
2. Khuyến khích sự cộng tác giữa sinh viên
Việc học được cải thiện khi làm việc nhóm hơn là một cuộc đua cá nhân. Học tốt, cũng như làm việc tốt, là hoạt động mang tính cộng tác và xã hội, không phải là cạnh tranh và cô lập. Việc chia sẻ ý tưởng và phản hồi ý tưởng của người khác có thể nâng cao khả năng tư duy và hiểu biết sâu sắc.
3. Khuyến khích học tập tích cực
Học tập không phải là một môn thể thao dự khan. Sinh viên không học được nhiều nếu chỉ ngồi nghe giảng, ghi nhớ các bài tập cho trước, rồi trả lời chúng. Họ phải nói chuyện về cái họ đang học, viết, lien hệ tới các kinh nghiệm trước đó và áp dụng trong đời sống thực của họ. Họ phải biến cái họ học thành cái của mình.
4. Cung cấp phản hồi kịp thời
Việc nắm được bạn biết cái gì và không biết cái gì sẽ giúp bạn tập trung trong học tập. Sinh viên cần các phản hồi thích hợp về hiệu quả của khóa học. Để bắt đầu, sinh viên cần giúp đỡ trong việc đánh giá các kiến thức và năng lực đầu ra của khóa học. Trong lớp, sinh viên cần có cơ hội thường xuyên để thực hiện và nhận được các gợi ý cải tiến. Trong suốt thời kì học tập, và khi kết thúc khóa học, sinh viên cần cơ hội để suy tưởng (reflection) về những thứ họ học được, cái cần phải biết them và cách thức đánh giá chúng.
5. Nhấn mạnh yếu tố thời gian trong công việc (task)
Thời gian + năng lượng = học tập. Không có sự thay thế cho thời gian cho cho công việc. Việc học cách sử dụng thời gian là một kĩ năng sống còn đối với sinh viên cũng như các công việc chuyên môn khác. Sinh viên cần giúp đỡ để quản lí thời gian hiệu quả. Phân bố khối lượng công việc phù hợp đồng nghĩa với việc học tập hiệu quả của sinh viên cũng như việc dạy học hiệu của đối với giáo viên. Cách thức một trường học xác định kì vọng về thời gian đối với sinh viên, giáo viên, giáo vụ, và các chuyên viên khác có thể thiết lập nền tảng cho sự hiệu quả cao trong công việc của tất cả mọi người.
6. Đặt kì vọng cao
Kì vọng nhiều hơn và bạn sẽ gặt hái nhiều hơn. Kì vọng cao rất quan trọng với tất cả mọi người – cả người ít chuẩn bị, người không kì vọng gì vào chính mình, và cả cho người thong minh sang sủa cũng như có động lực cao trong học tập. Việc Kì vọng sinh viên học tốt sẽ trở thành kim chỉ nam cho nỗ lực tự hoàn thiện khi giáo viên và trường học kì vọng vào chính học và thực hiện các nỗ lực khác.
7. Tôn trọng sự khác biệt về năng khiếu và cách học
Có nhiều cách để học. Mọi người có năng khiếu khác nhau và phong cách học khác nhau khi đến trường. Sinh viên xuất sắc trong phòng seminar có thể rất vụng về trong phòng lab hoặc studio. Sinh viên có nhiều kinh nghiệm thực tiễn có thể không giỏi trong lí thuyết. Sinh viên cần có cơ hội để thể hiện năng khiếu của họ theo cách riêng của họ. Khi đó họ có thể được thúc đẩy việc học theo những cách thức mới mẻ mà không gặp khó khan gì.
Lần thứ nhất, hồi còn đi học. Thằng bạn cùng nhóm nói “em được thầy nhận cho làm cùng, em nhìn code của thầy rồi, ngon lắm, dựa trên OpenGL, lập trình giao diện nhiều chiều – ít nhất 4D. Anh dạy em tí ma trận đi, hiện nay em chẳng biết gì”. Mình nói mình quên sạch rồi, chào thua thôi :(. Lúc ấy cứ nghĩ thầy dạy Infosys, thiết kế và quản lí dự án thì dừng lại chém gió thôi, ai ngờ cũng code “trâu bò” lắm.
Lần thứ hai, đã ra trường vài năm, trở lại Sài Gòn trong một khóa học ngắn hạn. Gặp thầy ở đó, thầy bảo “tao bỏ trường rồi, bọn nó chỉ chăm chăm làm business, không quan tâm đến giáo viên và sinh viên, tao không thích nên bỏ”. Thầy ra khỏi “tháp ngà”, đầu tư vào hai công ty, tư vấn cho một công ty – làm “agile master” – đúng cái thầy thích. Hỏi thầy sao đến đây, thầy bảo tao đi học, mới giật mình, cứ tưởng chỉ có mình mới hâm hâm lúc nào cũng nghĩ đi học, bỏ tiền bỏ thời gian, bỏ nhà đi học; hóa ra còn có người “hâm” hơn mình nhiều: giáo sư vẫn đi học chăm chỉ, kể cả những thứ “thuộc nằm lòng ” rồi. Giật mình, nghĩ mình vẫn còn học ít quá.
Lần ba, lại gặp thầy. Một đứa làm speaker mở đầu, một người làm spkeaker (gần) chốt hạ trong một hội thảo vui vẻ. Thầy lại khoe code. “Lại tao cho xem! Viết phần mềm không cần viết code. Phần mềm không có bug …”. Thầy vẫn dùng C# như năm xưa, Mono trên máy Mac. Code cực kì sáng sủa, ý tưởng đột phá. Mình xem thầy gói lại các cấu trúc điều khiển trong các object, gói lại các toán tử trong các object, cách các object được tạo ra tương tác với nhau mà … thất kinh. Kiểm tra trên trang web, thấy thầy quảng cáo là đến 2013 thì phát hành. Hồi ấy là tháng Mười năm ngoái. Giật mình đến tận bây giờ vẫn chưa hết. Năm xưa thầy bảo “học được cái gì hay đã khó, tạo ra cái gì hay hay còn khó hơn gấp nhiều lần, nhưng đã học là phải học cách tạo ra cái gì đó”. Mình đã tạo ra được cái gì chưa nhỉ?
Mình có đưa ra một luồng kích não (brainstorming) để tìm kiếm “1001 cách triệt tiêu hiệu quả của việc học”. Mặc dù chưa được 1001 item theo dự kiến, nhưng “ra lò” được vài ý kiến hay:
Mr. Dũng ND cho rằng nguyên do là ở người học không trả lời được các câu hỏi cơ bản Why\How\What\When\Where\Who. Dường như phủ kín các trường hợp 🙂
– Why: không có động lực và mục tiêu (không biết bản thân cần và muốn gì)
– How: không có phương pháp hoặc pp không phù hợp (làm gì cũng cần có pp, từ làm việc trí óc như nghiên cưứ khoahọc đến làm việc chân tay như làm tình thì cũng đều cần có pp hiệu quả 🙂
– What: học không đúng cái cần học, không biết học cái gì
– When: học không đúng lúc/thời điểm
– Where: học không đúng nơi/chỗ, môi trường học không tốt.
– Who: cuối cùng thì vđề nằm ở con người; người học không tập trung, người học không đủ khả năng; người dạy không đủ khả năng.
Một số ý kiến khác, tuy rời rạc nhưng cũng đúng:
- Năng lực chỉ có thế nên không thể hiệu quả được (tức là học không phù hợp trình độ, chọn sai What, nên không thể hiệu quả được?)
- Lười (nguyên nhân muôn thuở, của tất cả các loại hoạt động, không chỉ học)
- Thầy dạy lởm (cái này nằm ở chữ Who của Dũng ND)
- Học cái người ta không cần (sai cái What)
- Không có mục tiêu! (Không có Why và What)
- Không tập trung (???)
- Không trải nghiệm thực tế (tức học không đi đôi với hành)
- Không cải tiến cách học (học một nhưng không biết mười, nên cứ cần cù bù thông minh)
- Không biết cách tạo môi trường học (sai Where)
- Thầy cóc truyền được hứng thú cho trò (đã đành, vậy làm sao để tự có hứng thú?)
Còn tiếp …
Lần đầu tôi được chứng kiến cách dạy kiểu Student Teaching là khi học thầy Eric – một cao thủ giảng sư đại học. Với Student Teaching, thầy không cần dạy, mà trò thì học như điên, kết quả thì khỏi phải nói: quá tuyệt.
Bắt đầu với môn học, thầy chỉ ra kì vọng của mình: tôi không chấp nhận kết quả học tập kém, và các bạn thì thừa sức đạt Distinction (giỏi) – dễ như bỡn.
Cũng hôm đó, thầy nói “tôi không giỏi tiếng Anh, dù tôi là người Mỹ”!?
Rồi thầy trưng ra thống kê của Briggs cho thấy: cách học dở ẹc nhất là nghe giảng\dở ẹc thứ nhì là cắm đầu vào đọc sách\tốt nhất là dạy nhau cái mình biết\tốt nhì là bắt tay giải quyết bài toán chính mình vướng phải. Tôi sẽ để các bạn làm cái tốt nhất. Cả lớp cứ há hốc mồm.
Rồi thầy thuyết trình bài đầu tiên. Hai mươi đứa thì hai mốt đứa mắt trợn ngược không hiểu gì. Lòng bảo dạ: phen này phải tự lao đầu vào học không thì toi cái tám trăm đồng (phí cho một môn học).
Thế là theo kế hoạch của thầy, cả lớp phân làm bốn nhóm, mỗi nhóm đọc trước một chương, giảng lại cho các nhóm khác, thiết kế bài tập cho các nhóm khác làm, chấm bài và gửi lại cho thầy đánh giá. Tất nhiên là cả bài tập lẫn nội dung slide đều phải qua tay thầy duyệt và comment trước. Cứ thế xoay vòng cho hết cái chương trình của môn học.
Hôm mình qua văn phòng thầy nộp bài, thấy có cả đống slide và bài tập; cái nào cái nấy chuyên nghiệp kinh khủng. Hóa ra lớp nào thầy cũng dùng bài “student teaching” thì phải.
Trong đề cương của thầy mỗi nhóm phải hoàn thành một dự án. Đầu giờ học, các nhóm có 15 phút để kiểm tra tiến độ và các khó khăn của mỗi dự án. Rồi comment lẫn nhau. Không khí rất sôi nổi, và hiếm khi thấy sự chểnh mảng trong các nhóm vì project có khối lượng công việc không nhỏ, không làm liên tục thì cuối kì tha hồ mà hộc hơi.
Sau mỗi buổi học khoảng một tiếng, thầy đưa bài quiz nhanh, khoảng 10 phút. Đứa nào không làm được 8/10 (đủ để được điểm distinction) câu thì phải làm bài tập lớn bổ sung. Sợ vất vả, đứa nào đứa nấy phải mài đũng quần ở thư viện, đọc kĩ giáo trình, làm bài tập sơ cua trước khi đến lớp. Trong lớp chỉ có một tiếng nên đứa nào cũng chăm chú, tham gia tích cực vào bài giảng và các hoạt động trên lớp. Do bạn mình giảng bài nên đứa nào đứa nấy mạnh dạn hỏi han, comment tùm lum lên. Kết quả là hôm nào cũng chỉ hai ba đứa phải làm bài tập làm thêm (gọi là Student Learning Asignment – vừa phải làm, vừa phải chấm cho nhau, nếu chấm điểm thấp thì phải ghi rõ vì sao thấp, cách để nâng điểm).
Kết quả thi cuối kì môn ấy, tổng hợp lại các điểm quiz, điểm project và điểm thi cuối kì, toàn điểm DI (Distinction – Giỏi) và HD (High Distinction – Xuất sắc) cả. Tuyệt nhiên không đứa nào trượt. Hoàn toàn thỏa mãn.
1. Chơi cho biết, thiệt hại gì
Cách dễ nhất và ít thiệt hại nhất luôn là thử. Cái mất duy nhất thường chỉ có thời gian (ngắn). Nhưng bù lại thì được:
– Biết Scrum là gì?
– Nó chạy như thế nào \ Hỏng như thế nào?
– Mình có dùng được không?
Cách làm: chỉ cần lập ra một đội vài người, rủ nhau đọc Scum Primer, thảo luận một buổi, chọn lấy một bài toán nho nhỏ rồi “chiến” luôn không cần đợi. Để thử thì chỉ cần một vài tuần là quá đủ; có nhóm thậm chí chỉ cần bốn ngày cho một mini-sprint duy nhất trước khi làm thật. Thử xong, ngồi lại và xem xét đã học được gì, trả lời cho các câu hỏi bên trên. Xong.
2. Đánh nhanh thắng nhanh
Nhiều khi có nhóm chỉ có một hai tháng để làm project, không đủ thời gian để đầu tư nhiều cho học tập, đào tạo hay thử nghiệm. Trong trường hợp này, nhóm cần các Quick-wins thay vì chiến lược bài bản. Mục tiêu lớn nhất: hiệu quả hơn.
Có thể làm thế này:
- Đọc nhanh Scrum Primer và thảo luận để hiểu Scrum
- In ra Ba chân của Scrum dán vào nơi làm việc để nhớ cái cốt lõi
- Chọn lấy một trong các thứ hữu dụng để tập trung làm tốt. Ví dụ: thiết kế lấy task board, cộng với daily scrum. Tạm thời quên đi các phần khó của Scrum như Retrospective, Scrum Master, Estimation v.v.
- Tuân thủ nguyên tắc Sprint ngắn, không nhất thiết tuân thủ chặt chẽ quy tắc Potentially Shippable trong một vài Sprint đầu
- Có đánh giá lại thường xuyên những gì đang diễn ra. Hằng ngày, thay vì để cuối Sprint.
3. Một nước hai chế độ
Cái này thì theo sách mà làm: làm một cái factory cho khu vực sản xuất, chọn nhân sự phù hợp Scrum để gửi vào đó. Rồi áp dụng Scrum bài bản: đào tạo, huấn luyện, phân rõ vai vế, môi trường làm việc phù hợp Scrum, triển khai Scrum đầy đủ “theo sách” …
Ngòai khu vực factory, mọi chuyện vẫn diễn ra theo cách bình thường.
Có thể các nhóm khác vẫn làm việc như cũ. Vận hành kiểu một đất nước hai chế độ.
4. Scrum là động lực phát triển
Nếu điều kiện cho phép (đủ quyết tâm, đủ chuyên gia, đủ tiền & lãnh đạo đủ “máu” v.v.) thì có thể bắt trước Saleforce.com để kéo cả làng làm Scrum.
Cách làm: thành lập một rollout team với đầy đủ thành phần quan trọng: chuyên gia Scrum, lãnh đạo cấp cao, những key person của các đội phát triển; lập chiến lược với mục tiêu rõ ràng cho việc áp dụng đại trà Scrum; xây dựng kế hoạch dài hơi, chi tiết và thực thi hiệu quả cho việc áp dụng Scrum.
Việc này có thể mất hai ba tháng cho chuẩn bị, hai ba tháng “dò đường” và vài năm để trưởng thành thực sự.
5. Văn hóa Scrum ở mọi nơi
Người người dùng Scrum.
Nhà nhà [phát triển, kinh doanh, tiếp thị v.v.] dùng Scrum;
Scrum trở thành “khí” của cả tổ chức; tạo thành cái hồn, thành nếp sống. Khi đó, không cần tới manual nào cả, chẳng cần đến Scrum Guide nào hết; người mới được quẳng vào làm việc là sẽ phải hít thở không khí Scrum, không cần gì thêm.
Cách làm: ???
Các cụ có câu “của rẻ là của ôi”, các nhà “lean thinker” lại không đồng ý với quan điểm đó: có thể vẫn có chất lượng cao mà giá rẻ.
Khóa học Scrum vừa rồi cắt giảm chi phí được gần hai chục lần, tuy vậy, hiệu quả không được như lean mô tả :((
1. Phòng học nhỏ, chỉ chứa 20 người. Nhiều người khác đăng kí muộn không còn chỗ phải chờ dịp khác. Vậy mà có 5 người đặt gạch mà không đến. 5 người khác đã mất cơ hội học tập.
2. Bản đăng kí có ghi mọi người phải đọc trước tài liệu ở nhà, in slide để đi học (cái này là thử nghiệm lần đầu). Cái kiểu “người học tự đóng góp” này không hiệu quả: chỉ có 2 người in tài liệu học tập trước khi đến lớp (vẫn là thói quen của người Việt – ít chuẩn bị khi đi học). Sự cắt giảm cho tài liệu handout có thể không mang lại hiệu quả như mong muốn, hoặc do việc tổ chức chưa đến nơi đến chốn.
3. Việc “miễn phí” vẫn bị đồng nghĩa với “giá trị thấp” cản trở những người học có nhiều kinh nghiệm đến với lớp học. Từ đó, lối học dựa trên kinh nghiệm chưa phát huy được tối đa hiệu quả.
Dù sao đi chăng nữa, có thêm 15 người nữa được học kĩ hơn về Scrum. Cộng đồng có thêm 15 thành viên nữa 😉
Niềm vui lớn nhất chính là việc tài liệu học tập được Việt hóa toàn bộ(tại đây). Giờ đây, người học dễ dàng tiếp cận với Scrum hơn.
Tìm kiếm
Sách mới: Tư duy thiết kế cho mọi người
Bài viết mới
Đang được chú ý
Chuyên mục
- Agile Mindset (149)
- Chuyện đời (22)
- Công nghệ (14)
- Đọc (75)
- Sách (46)
- Giáo dục (197)
- Constructivism (5)
- Học cách học (35)
- Khai phóng Giáo dục (19)
- Tu thân (5)
- Khác (15)
- Lean Startup (16)
- Linh tinh xòe (53)
- Lan man (24)
- Quản trị mới (57)
- COVID19 (9)
- Tài nguyên (2)
- Tri thức và Nhận thức (17)
- Xã hội tri thức (23)
- Tổ chức học tập (20)