Vừa mới khởi động chương trình Balance 1.0 tại cơ quan của mình. Kể từ ngày biết Scrum, agile đến giờ, mình đã thuyết trình và nói chuyện nhiều về các giá trị trong công việc, nhưng đây là lần đầu tiên mình thực sự có hành động và bài bản để tiến tới cái mà ai cũng mong muốn: work-life balance. Trong lòng thấy rất phấn khởi
Trong bài trước (http://www.hanoiscrum.net/hnscrum/learning/102) tôi đã giới thiệu “User Story là gì”. Hiểu được và thao tác được với user story thì mới mong lập kế hoạch hiệu quả được .
Lập kế hoạch tức là phải phác thảo ra được lượng nỗ lực và nguồn lực cần thiết bỏ ra trong khoảng thời gian nhất định để đạt được mục đích. Để làm được việc lập kế hoạch thì chắc chắn phải ước lượng. Nhưng ước lượng là một bài toán khó, vì đòi hỏi đoán trước tương lai. Bản chất từ “ước lượng” đã hàm ý việc không thể đòi hỏi tính chính xác 100% trong các giá trị được đưa ra. Tuy vậy, về tính “hữu ích” và thực tế, chúng ta luôn phải tìm kiếm một phương pháp ước lượng đáng tin cậy.
Trong bài “Tại sao point lại tốt hơn giờ?” (http://www.hanoiscrum.net/hnscrum/resource/109), Jeff Sutherland đã chỉ ra ưu điểm của user story point. Bài này muốn đóng góp thêm vài ý.
1. User Story point là gì?
Đó là đại lượng chỉ độ lớn tương đối của các user story trong cùng một dự án. Trong một phiên hoạch định trước Sprint, nhóm phát triển dùng Scrum Poker để đánh giá độ lớn bé các story này, và ghi các giá trị đó lên mỗi user story card.
Ví dụ ta phải làm một hệ thống có ba user story như sau:
u1. là khách hàng, tôi muốn đăng nhập vào hệ thống để xem trạng thái cua đơn hàng đã đặt.
u2. là khách hàng, tôi muốn lựa chọn các sản phẩm mong muốn vào giỏ hàng để đặt mua
u3. là khách hàng, tôi muốn hủy một đơn hàng khi đã đặt
u1 được gán là 3 điểm (point), u2 là 8, u3 là 4 tức là độ lớn của toàn bộ dự án là 15 điểm. Nỗ lực cần bỏ ra để thực hiện u3 tương đương u1, u2 gấp đôi u1. Ở đây dấu “=” có nghĩa là “khoảng ấy”, cỡ ấy chứ không hàm ý là “bằng”.
2. Độ lớn của các story có thể thay đổi theo thời gian
Do nhóm đã trưởng thành qua thời gian, hiểu biếu về hệ thống thay đổi, và có thể PO thay đổi yêu cầu v.v., nên phải tái ước lượng. Vì thế u3 có thể được đánh giá lại sau sprint 1 là 6 thay vì 4 như cũ vì có vẻ việc hủy một đơn hàng không đơn giản là nhấn nút “Hủy” mà còn phải tính tới các chính sách khác chưa được tính tới tại thời điểm ước lượng lần một. Vì thế sau phiên “làm mịn” các story, thì độ lớn của từng story thay đổi.
Nhưng ..
3. Story point là đơn vị cố định. Nó là atomic.
Không có chuyện một point ở Sprint 2 thì bằng một nửa point ở Sprint 1. Chỉ có việc u3 ở Sprint 2 có thể được ước lượng lại ở Sprint 2 là tăng lên 6 points.
Tất cả các point đều phải quy chiếu về cái gì đó làm mẫu. Ví dụ, lúc đầu, tất cả các story u2, u3, .. đều được mang ra so sánh với u1. Thì đến Sprint 3,story Un cũng phải đem ra so sánh với u1. Nếu không tham chiếu đến “tiêu chuẩn”, thì khái niệm “point” không có giá trị gì trong hoạch định dài hạn cả.
Agile Estimation (Ước lượng Linh hoạt):
1. Lấy ra một cặp story (ví dụ: u1 và u3) tương đối dễ hiểu đối với cả nhóm (hiểu cả nghiệp vụ lẫn các công việc để thực hiện hai story này); story thứ hai có độ lớn gấp đôi story kia.
2. Gán u1 số điểm là 3, u3 là 8. Hai story này để tham chiếu cho toàn bộ quá trình ước lượng các story còn lại.
3. Chơi Scrum Poker để đánh giá độ lớn các story còn lại.
Việc so sánh độ lớn của một story u3 ở Sprint 1 với Sprint 2 là không có ý nghĩa gì cả. Cái này nó biến động liên tục. Vì nó không có nghĩa nên không nên đem ra so sánh để làm gì.
4. Velocity (tốc độ) là gì?
Là số point burn được trong một Sprint.
Velocity có thể thay đổi theo thời gian. Thường là tăng.
Với giả định là các ước lượng user story point ban đầu là đáng tin thì có vẻ như velocity sẽ tăng dần do nhóm ngày càng làm việc tốt hơn, hiểu sản phẩm hơn, nắm vững công nghệ đặc thù của bài toán đó hơn v.v.
Khái niệm gia tốc có thể được tính đến khi nhóm scrum ở mức trưởng thành cao. Khi đó tốc độ tăng tiến đều và đoán được thông qua một đại lượng cố định. V2=aV1. Tuy vậy, giá trị này không phải lúc nào cũng có nghĩa.
5. Velocity có giá trị đối với việc hoạch định sản phẩm và phát hành
Giả sử nhóm là cố định. Hiệu suất của nhóm được đo bằng velocity. Giá trị này hoàn toàn tiên lượng được trong ngắn hạn.
Giả sử Sprint 1 burn được 30 point, Sprint 2 được 35 point, thì có vẻ như Sprint 3 nhóm sẽ burn được ít nhất là 35 point. Điều này là tin được, vì theo (4), nhóm sẽ làm việc ở Sprint 3 không kém hơn so với Sprint trước.
Chuyện tiên lượng này không hề bị ảnh hưởng của sự ước lượng lại tại đầu Sprint (khi đó u3 có thể đã có độ lớn bằng gấp đôi so với ước lượng lần trước). Vì sau khi làm mịn, độ lớn lại được quy ra point, và point này là lại quy về point so với thời điểm ban đầu (so với u1).
Do vậỵ Product Owner hoàn toàn có thể đoán được thời điểm một feature nào đó sẽ có (để quảng cáo, bán hàng, v.v.) cũng như phác ra một kế hoạch release khả thi.
6. Velocity không phải là công cụ đo performance của các nhân
Mặc dù ta có thể làm như vậy, và thực tế nhiều người làm như thế. Trong một nhóm có thể có quy ước “ghi công” cho ai đó khi hoàn thành một feature. Khi đó cuối Sprint ta biết được ai burn được bao nhiêu để lập “bảng thành tích” rồi “tính lương” .
Một số dự án đặc thù có thể cho phép cách làm như vậy. Nhưng đại thể, agile không khuyến khích cách làm như vậy. Agile vốn khuyến khích tương tác, cộng tác, sở hữu tập thể thì không có lí gì lại đi đo thành tích cá nhân dựa trên số point burn được của từng cá nhân. Cái này là scrumbut.
7. Quy đổi ra giờ
Cuối cùng thì ai cũng hỏi vậy tương đương Point-Giờ thế nào? Vì cái làm việc theo giờ thì dễ hình dung hơn về độ lớn của dự án. Chứ point “ảo” quá! Quy ra person-month hộ tôi cái!!!
Chỉ có mối tương quan point-giờ trong phạm vi dự án mà thôi do point là chỉ là đơn vị có giá trị trong nội bộ một dự án. Point trong dự án này không bằng point trong dự án khác (do quy chiếu khác nhau).
Cách quy đổi khá dễ: nếu nhóm năm người burn được 30 point trong 1 sprint 1 tháng, thì rõ ràng là một point bằng năm person-month rồi. Tuy nhiên bản thân độ đo user story point đã đủ tốt rồi, nếu không phải trường hợp vạn bất đắc dĩ, không việc gì phải dùng thêm một độ đo khác vốn cực kì bất ổn là person-month (cái này thì sách nói nhiều rồi).
8. Dùng point cho story, nhưng dùng “giờ” cho task
Khi PO quyết định nhóm phải burn 30 point trong Sprint tới với các story được chọn lựa thì việc của nhóm là phải break down các Story kia thành ra các task với ước lượng ra “giờ” để điền vào Sprint Backlog. Trong trường hợp này, nhóm lại quên khái niệm point đi (thực ra khái niệm này có nghĩa với PO hơn là với dev), để tập trung việc burn được bao nhiêu productive hours.
Sự nhầm lẫn hay xảy ra khi nhóm vẫn dùng Scrum Poker để ước lượng các task nhưng lại nghĩ là mình ước lượng các story. Để tránh nhầm lẫn nầy, không nên để hai phiên làm việc release planning (đánh giá story) liền với Sprint Planning (chẻ nhỏ story).
Mấy tuần trước ông bác đáng yêu của mình có khoe “một bài viết rất hay” trên Vietnamnet của một ông tiến sĩ người Việt “nổi danh khắp năm châu”. Đã đọc, và thấy hay thật (nó đây: Tiền ơi, xin chào mi…. ).
“Tôi vẫn yêu tiền. Dù nó mang đến hạnh phúc hay đau khổ, đồng tiền vẫn là người vợ, người tình và người bạn tuyệt vời. Nhưng tôi cũng không bao giờ quên những phúc lộc không cần có tiền, không cần mua hay thâu tóm. “
*
Mấy hôm sau đọc “Những nghịch lí của thời gian” của một ông tiến sĩ khác, cũng nổi danh cả nước, lại thấy nói về tiền, nhưng là mối quan hệ với thời gian:
“Thời gian chúng ta có là tiền bạc chúng ta không có (Ilia và Petrov). Nhận xét trên không biết hóm hỉnh đến đâu, nhưng thật sự an ủi lòng người: cuối cùng thì chúng ta ai cũng có được một cái gì đó – chí ít là thời gian. Thời gian không sở hữu được, nhưng ai cũng có. Cái dễ sở hữu hơn là tiền bạc thì ngược lại – nhiều người không có.”
**
Vài bữa nay cứ lúc nào rảnh lại nghĩ không tiền thì là thời gian. Nhưng không phải nghĩ kiểu hai ông tiến sĩ kia, vì thân mình chả có cả tiền lẫn thời gian. Nên vẫn chưa thể “Tiền ơi chào mi…”, lại cũng không thể ngồi thảnh thơi cả buổi đọc sách uống cà phê tự nhủ”ta – một triệu phú thời gian”. Cũng chỉ tại cái anh “cơm áo gạo tiền”!!!
***
Chợt nhớ đến bộ phim mà mình rất thích: “The Pursuit of Happiness” có nam tài tử Will Smith đóng. Mình đoán tựa đề phim lấy cảm hứng từ một câu trong Tuyên ngôn độc lập của Mĩ, đã từng được Bác Hồ nhắc lại trong tuyên ngôn độc lập nước Ta: “ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc”.
“We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.”
Thường thì cái gọi là “hạnh phúc” rất khó nắm bắt: định nghĩa mơ hồ, quan niệm khác biệt mỗi người mỗi khác, có rồi lại mất, tưởng có hóa không. Nhưng ai cũng muốn có nó, và xã hội (theo nghĩa rộng) tốt là phải để người dân thực hiện cái quyền cơ bản là mưu cầu hạnh phúc.
Nói là “mưu cầu” tức là để đạt được hạnh phúc chả phải dễ dàng gì. Có lúc phải ứa nước mắt ra mới biết mình hạnh phúc. Có cái hạnh phúc phải đánh đổi bằng những ngày dài thâu đêm, quên ăn mất ngủ. Có cả cái hạnh phúc phải đánh đổi bằng máu. Và có vẻ như người ta chỉ hạnh phúc thật sự khi người ta mưu cầu, chứ chẳng thể nào có thứ hạnh phúc thật sự từ trên trời giáng xuống, từ bề trên ban phát hay từ sự thông minh đột xuất có thể giật lấy hạnh phúc trong tức thì.
Sách Lean Startup có dạy rằng “fail fast” tức là hãy bắt tay vào việc và sẵn sàng đón nhận thất bại càng sớm càng tốt. Không phải đợi tới một năm thử nghiệm với bao nhiêu đầu tư, nguồn lực và hy vọng để rồi nhận ra mình sai lầm. Trong thế giới biến động không ngừng, sự tiên lượng dường như rất xa xỉ bởi sự phức tạp vượt quá tầm hiểu biết và kiểm soát của con người. Vì vậy cách thông minh hơn là đừng có tiên đoán cái gì xa quá, mà hãy tự tin mà “chập chững” bước đi; ta có thể ngã nhưng đứng dậy ngay được. Và hãy mong đợi những cú ngã như vậy.
Anh bạn quý mến phương Nam của tôi đã có hơn một năm rưỡi chuyển đổi thành công sang Agile cũng có chia sẻ kinh nghiệm “xương máu” như vậy:
1. Trong suy nghĩ, luôn cho phép mọi người mắc sai lầm, và cả chính mình nữa
2. Trong hành động, phải bắt tay vào ngay, không đợi đến khi bạn có đủ thông tin mới làm việc.
Sự khác biệt trong tiếp cận của Agile nói chung chính là ở chỗ này: thực tiễn sẽ dạy ta thông tin ta cần biết, cái ta cần phải làm. Và để biết được điều đó thì chỉ có một cách duy nhất là bắt tay vào thực tiễn và chấp nhận sai lầm. Và thông minh hơn nếu như ta có cách giảm thiểu rủi ro và thiệt hại (nếu có) của sai lầm ấy. Cách đó chính là việc “do small” – làm cái nhỏ thôi, và nhích lên từng bước một. Thất bại là mẹ của thành công. Sao lại phải sợ thất bại nhỉ !?
Trong suốt cuộc đời đi học – đi dạy còn lâu mới kết thúc của mình, tôi đã nghe không biết bao nhiêu lần lời nhắn nhủ của cha anh: tài năng chỉ có 1% là được thừa hưởng của cha mẹ, 99% còn lại là do mô hôi nước mắt của chính mình mà nên. Malcolm Gladwell – một trong các tác giả có nhiều ảnh hưởng nhất thế giới (theo Time) – có đưa ra một con số ước lệ tốt hơn rất nhiều: 10 000 giờ. Đó là con số 99% mồ hôi nước mắt được cụ thể hóa. 10 000 giờ khổ công học & tập để thành tài thật sự. Ngày càng nhiều người bắt đầu trích dẫn 10 000 giờ thay vì 99%. Tôi cũng thuộc số ấy.
Còn đây là lời nhắn nhủ của ông Trương Gia Bình viết trong Lời tựa của cuốn sách:
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Hy vọng cuốn sách nhỏ này gợi mở cho mỗi gia đình, mỗi cá nhân cách thức hun đúc nguyên khí Việt Nam!”
Bạn là sinh viên, hay là nhà giáo dục, hay là ai đi chăng nữa mà có chút ít quan tâm đến sự tiến bộ, quan tâm đến thành công, đừng bỏ qua cuốn sách này nhé. Sách đọc vào lắm!
Trong nhiều lần nói chuyện với sinh viên và đồng nghiệp tôi có nhắc nhiều đến từ “critical thinking”, năng lực phê phán hoặc “tư duy phản biện”. Có nhiều người dễ dàng đồng ý về tầm quan trọng của nó trong việc học tập và thực hành nghiên cứu, nhưng cái tôi thường nhìn thấy là sự nhầm lẫn giữa việc “phản biện” với “phản bác”. Biểu hiện cơ bản của hiện tượng này là việc một người rất dễ nghĩ ngược lại, nói ngược lại, làm ngược lại một lí thuyết hoặc quan điểm của người khác trong khi không thèm đoái hoài gì tới quan điểm đó; phản bác nó khi chưa biết nó là cái gì.
Sự thiếu thốn của việc dạy dỗ và thực hành “critical thinking” trong nhà trường – từ phổ thông lên đại học- cộng thêm sự thiếu thốn về tài liệu tiếng Việt viết về “critical thinking” có thể là lời lí giải cho hiện tượng trên. Và đó là một trong số rất nhiều lỗ hổng trong thiết kế chương trình của nền giáo dục VN. Nếu coi “tri thức” (ở dạng đơn giản nhất là “thông tin”, thực tế quan điểm hiện đại không coi tri thức = thông tin nữa) là “cá”, và việc đi học là đi “câu cá”, thì các chương trình học hiện nay tiếp cận theo kiểu “mỗi hôm đưa cho SV một con cá” thay vì phải “đưa cho cái cần câu” và “dạy cách câu cá”. Để “câu” được “tri thức” (thứ tri thức đích hiệu, chứ không phải giả hiệu), những thứ như “critical thinking” chính là “cần câu” vậy.
Vậy “critical thinking” là gì? Tôi xin giới thiệu một bài viết (ở bên dưới) rất cô đọng và có giá trị của GS Huỳnh Hữu Tuệ (đăng trên blog của GS Nguyễn Văn Tuấn) về tác dụng của Crititcal Thinking. Bài này chỉ giới hạn trong phạm vi học tập và nghiên cứu, nhưng critical thinking còn có phạm vi ảnh hưởng nhiêu hơn thế. Đó còn là chìa khóa cho việc giải quyết vấn đề, tư duy chiến lược, tư duy sáng tạo, ra quyết định, lập kế hoạch v.v.
Bạn cũng có thể đọc thêm entry “Hỏi” để có thêm được một chút công cụ cho critical thinking.
Nhưng trước hết xin liệt kê ra đây hai bản tóm tắt đại khái “critical thinking” là gì của Wikipedia:
Wiki tiến Anh:
“Critical thinking is the process of thinking that questions assumptions. It is a way of deciding whether a claim is true, false; sometimes true, or partly true. Critical thinking is an important component of most professions. It is a part of the education process and is increasingly significant as students progress through university to graduate education, although there is debate among educators about its precise meaning and scope.”
Wiki tiếng Việt (nội hàm hơi khác):
“Tư duy phản biện là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, lôgíc, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ và công tâm.
Dựa vào những nghiên cứu gần đây, các nhà giáo dục đã hoàn toàn tin tưởng rằng trường học nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy phản biện. Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Đó có thể tóm tắt là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác của thông tin.”
_______________________________________________________________
Vai trò của tư duy phản biện trong học tập ở bậc đại học
(Tg. GS Huỳnh Hữu Tuệ, đăng trên Blog của GS Nguyễn Văn Tuấn, URL)
Học là gi? Học chính là quá trình thu thập và chắt lọc kiến thức (cả về thông tin cơ bản và phương pháp luận) một cách có hệ thống và biến nó thành máu thịt của mình. Như thế học là một hoạt động thường trực, trong lúc còn là sinh viên và ngay cả lúc đã ra đời. Nhờ đó, học tập giúp con người có đủ kiến thức, đủ bản lĩnh để đánh giá và lấy quyết định, và như thế giúp con người nâng cao khả năng đối diện với các vấn đề mà cuộc đời đặt ra, dù là trong lĩnh vực chuyên môn hay trong lĩnh vực xã hội. Để đạt dược mục tiêu đó, trong lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, sinh viên cần nắm vững phương pháp học tập để tôi luyện bản lĩnh cá nhân, xây dựng động lực học tập giúp cá nhân càng ngày càng trở nên tích cực hơn, và chấp nhận trách nhiệm của mình đối với bản thân và đối với xã hội. Học thật sự để trở thành một người có khả năng tư duy độc lập, nâng cao khả năng tư duy phản biện và khả năng sáng tạo, để trở thành một người hữu ích cho xã hội. Khả năng sáng tạo phụ thuộc khá nhiều vào tố chất cá nhân; nhưng tư duy độc lập và tư duy phản biện lại phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng đào tạo và học tập của môi trường giáo dục.
Học tập giúp sinh viên phát triển đời sống trí tuệ của mình; hoạt động trí tuệ lại là cơ sở của khả năng tư duy độc lập và tư duy phản biện. Như thế, chất lượng tư duy phụ thuộc chặc chẽ vào quá trình phát triển trí tuệ. Có nhiều mô hình về quá trình phát triển trí tuệ; tuy nhiên tất cả mô hình đều có một số điểm cơ bản giống nhau, được chia ra một số giai đoạn (W. G., Jr. Perry, Forms of intellectual and ethical development in the college years: A scheme. Holt, Rinehart & Winston, New York, 1968, được trích dẫn lại trên trang Web http://www.cmu.edu/teaching /index.html, thuộc Đại học Carnegie Mellon)
Giai đoạn 1 đối ngẫu (dualism): trong giai đoạn phát triển sơ khởi này, sinh viên thường nhìn cuộc đời dưới dạng tốt-xấu, trắng-đen; và trong suy nghĩ của sinh viên ở giai đoạn này, kiến thức thu thập là rõ ràng minh bạch, không có mập mờ; học tập đơn giản chỉ là một quá trình trao đổi thông tin. Đối với họ, người thầy giảng bài tức là trình bày những kiến thức mới dưới dạng sự kiện; và sinh viên chỉ cần học thuộc lòng là hoàn thành nhiệm vụ học tập. Ở giai đoạn đối ngẫu này, sinh viên sẽ bức xúc nếu người thầy cho những câu trả lời có điều kiện, hoặc là không trả lời mà lại đặt ra những câu hỏi khác.
Giai đoạn 2 đa dạng (muliplicity): giai đoạn kế tiếp bắt đầu lúc sinh viên nhận thức được rằng ngay những chuyên viên cao cấp có lúc cũng chưa hẳn đồng ý với nhau trên một số vấn đề và đôi lúc còn hoàn toàn có quan điểm đối lập nữa. Đối với sinh viên ở giai đoạn phát triển này, mọi chuyện đều phụ thuộc vào viễn ảnh và ý kiến cá nhân. Họ cãm thấy đủ sức để tự mình suy nghĩ, và cũng đủ sức để đặt lại vấn đề về những kiến thức do người thầy truyền đạt. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, người sinh viên chưa hẳn đã đủ sức để đánh giá những cái nhìn khác nhau, và hẳn cũng chưa đủ sức để đưa ra những lập luận nhằm khẳng định quan điểm của mình. Và ở giai đoạn này, sinh viên xem đánh giá của người thầy đối với cá nhân mình là hoàn toàn có tính chủ quan.
Giai đoạn 3 tương đối hóa (relativism): trong giai đoạn phát triển tương đối phức tạp tiếp theo, sinh viên nhận thức rõ tầm quan trọng của chứng cớ và lý luận lúc tìm cách nâng cao tính thuyết phục quan điểm của mình. Người sinh viên ở giai đoạn này chấp nhận người khác có thể không đồng ý với cái nhìn của họ; và ngay cả ý kiến của lãnh đạo cũng cần được phân tích và phản biện cẩn thận, chứ không nhất quyết là nhắm mắt tuân thủ tuyệt đối. Cũng như ở trong các giai đoạn trước, bây giờ họ có thể có những suy nghĩ quyết liệt; tuy nhiên những suy nghĩ này đã được họ phân tích và đánh giá một cách nghiêm túc. Ở giai đoạn này, sinh viên bắt đầu nhìn thầy của mình với một cặp mắt khác: người thầy là một người hướng đạo có trình độ và cũng là một người đồng hành trong lĩnh vực tư duy trao đổi ý kiến, chứ không phải là một người lãnh đạo không hề có sai lầm, mà cũng không phải chỉ là một người nào đó có quan điểm khác mình.
Giai đoạn 4 chấp nhận trách nhiệm của một trí thức (commitment): theo Perry, giai đoạn cuối của quá trình phát triển trí tuệ không phải là bước nhảy vọt về mức độ phức tạp của trí tuệ, mà đúng hơn là cách tiếp cận vấn đề; áp dụng tất cả những kiến thức thu lượm được trong giai đoạn tương đối hóa để đưa ra những lựa chọn hay những quyết định dựa trên những phân tích và tư duy phản biện.
Theo Baxter-Magolda (M.B. Baxter-Magolda, Knowing and reasoning in college: Gender-related patterns in students’ intellectual development, Jossey-Bass, San Francisco, 1992) thì lúc sinh viên ghi danh vào đại học, mức độ trí tuệ của họ thấp hơn rất nhiều so với những gì ta hình dung, và trong quá trình học tập ở đại học (hệ thống 4 hoặc 5 năm), trí tuệ của họ cũng không phát triển đến mức độ mà ta hy vọng. Đồ thị sau đây, dựa trên một điều tra diện rộng trên toàn nước Mỹ, cho thấy mức độ phát triển trí tuệ của sinh viên.
Ta nhận thấy cách suy nghĩ đối ngẫu giảm đần và tư duy đa dạng phát triển theo thời gian; tuy nhiên cách tư duy tương đối lại phát triển khá chậm, không đạt đúng mức ta mong đợi.
Cố nhiên, kết quả học tập phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vừa chủ quan, vừa khách quan. Nhưng theo tôi, yếu tố chính yếu nhất vẫn là phương pháp học tập. Để trí tuệ được phát triển toàn diện, sinh viên phải có phương pháp học tập đúng đắn.
Nhìn lại mô hình phát triển trí tuệ của sinh viên, ta thấy khá rõ dấu ấn của tư duy phản biện (critical thinking) trong quá trình học tập. Như ta sẽ thấy, tư duy phản biện là phương pháp luận đúng đắn, là phong cách hữu hiệu của một trí thức lúc tiếp cận những vấn đề mà ta phải đối diện. Trong trao đổi ý kiến, trong tiếp nhận kiến thức mới, trong trường hợp phải đánh giá một quan điểm, một luận cứ, ta phải nhìn vấn đề với một đầu óc thoáng mớ, không thiên kiến. Phương pháp tư duy duy phản biện chính là công cụ giúp ta sử dụng toàn bộ kiến thức và trí tuệ để có một cái nhìn tổng hợp và chính xác về những vấn đề hay luận cứ ta quan tâm.
Một luận cứ thường được xây dựng trên những giả thiết được gọi là tiên đề. Từ tập hợp các tiên đề này, tác giả của luận cứ áp dụng các lý luận lôgíc hình thức để suy luận và đi đến một số kết luận. Lý luận lôgíc hình thức là một số qui tắc suy luận được các triết gia đúc kết suốt quá trình phát triển của con người, và hiện nay được xem là công cụ thiết yếu của lý luận trong tất cả mọi lĩnh vực; cố nhiên lý luận lôgíc hình thức là một bộ phận của tư duy phản biện. Tư duy phản biện giúp ta đánh giá luận cứ này, xem có chấp nhận hay cần loại bỏ nó. Về thực chất, tập hợp các tiên đề được xây dựng trên nền tảng kiến thức tích lũy của người đưa ra luận cứ. Như thế, nếu suy luận không phạm lỗi lôgíc hình thức, thì kết luận sẽ đúng nếu tiên đề là đúng. Từ đó, ta có thể thấy tư duy phản biện gồm những bước chính sau đây:
1) Đọc và theo dõi cẩn thận những bước đi của luận cứ nhằm xác định các tiên đề và các kết luận mà tác giả luận cứ nêu ra (trong trường hợp theo học một môn học mới, đây cũng chính là các kiến thức mới mà người thầy muốn sinh viên tiếp nhận).
2) Nếu trong luận cứ, ta thấy không có suy luận mà chỉ là những khẳng định (facts), thì luận cứ chỉ chứa đựng những thông tin, có thể chính xác hay sai lệch; như thế, ta có quyền không quan tâm đến những gì mà tác giả của luận cứ muốn thuyết phục người nghe.
3) Trong trường hợp suy luận của luận cứ không tuân thủ các qui tắc lôgíc hình thức, thì đây chỉ là một luận cứ ngụy biện (fallacy). Chữ ngụy biện trong tiếng Việt thường mang ý nghĩa xấu, tương ứng với tình huống người ta tìm cách thuyết phục người khác bằng cách nói dối một cách hùng hồn. Nhưng đúng ra, cũng có những lúc, người trình bày luận cứ không có ý muốn nói dối, nhưng chỉ phạm sai lầm trong lý luận mà thôi. Ngụy biện vô tình hay hữu ý có thể xuất hiện dưới rất nhiều dạng khác nhau; nếu ta muốn đánh giá chính xác một luận cứ, một trong những yếu tố quan trọng là phải hiểu rõ cấu trúc ngụy biện.
4) Cuối cùng, nếu suy luận của tác giả (hoặc người thầy) hoàn toàn chặc chẽ về mặt lôgíc hình thức, thì luận cứ được xem là đúng đắng.Vấn đề cuối cùng là xét xem có nên chấp nhận những tiên đề mà tác giả sử dụng trong luận cứ hay không. Đây là điểm mấu chốt của tư duy phản biện. Bởi vì nếu ta Chấp nhận tập hợp các tiên đề của luận cứ, tức là ta hoàn toàn chấp nhận kết luận của tác giả; nói cách khác, ta chấp nhận luận cứ. Ngược lại, nếu ta phủ nhận những tiên đề này có nghĩa là ta loại bỏ luận cứ đề ra, hay nói cách khác ta không chấp nhận những kết luận mà tác giả của luận cứ tìm cách thuyết phục ta (trong học tập, tức là từ chối hay chấp nhận những kiến thức mới như một thành phần của hệ thống kiến thức mà ta cần tích lũy trong quá trình học tập).
Cách đánh giá các tiên đề của một luận cứ, có nghĩa là chấp nhận hay từ chối những tiên đề mà tác giả của luận cứ sử dụng, phải dựa trên kiến thức đã đựơc tích lũy của mình, dựa trên kinh nghiệm và lòng tin cá nhân. Kiến thức phụ thuộc vào môi trường giáo dục, phương pháp giảng dạy của người thầy cũng như phương pháp học tập của sinh viên; kinh nghiệm phụ thuộc vào môi trường xã hội và cuối cùng là lòng tin lại phụ thuộc vào môi trường giáo dục gia đình.
Trong quá trình áp dụng phương pháp tư duy phản biện, bất cứ ở tại thời điểm nào, người sinh viên cũng phải sẵn sàng động não, suy luận và đánh giá; những hoạt động này sẽ tạo thành một phong cách tư duy, luôn luôn sẵn sàng lắng nghe, nhưng trước khi chấp nhận bất cứ ý kiến nào, người sinh viên phải chủ động phân tích và đánh giá. Hoạt động của não bộ theo phong cách này sẽ giúp sinh viên hình thành vững vàng tư duy duy độc lập và tư duy phản biện. Với tư duy độc lập và tư duy phản biện như nền tảng, và với kiến thức tích lũy thành hệ thống, sinh viên sẽ có điều kiện phát triển tư duy sáng tạo của mình.
Ta thấy ngay, kết quả của học tập và vận tốc phát triển trí tuệ phụ thuộc mạnh mẽ vào phương pháp học tập của sinh viên. Người nào nắm vững phương pháp tư duy phản biện, thì chất lượng học tập càng cao và trí tuệ càng phát triển vững chắc.
Huỳnh Hữu Tuệ
Phụ lục
Trên mạng Internet, có một địa chỉ của chủ biên J. Landsberger trình bày tất cả mọi khía cạnh cụ thể của một quá trình học tập có chất lượng. Độc giả quan tâm có thể kết nối đến địa chỉ của Study Guides And Strategies là http://studygs.net/
Độc giả cũng có thể làm quen nhanh chóng với tư duy phản biện tại địa chỉ sau đây http://www.criticalthinking.org/aboutct/ctquestionsanswers.cfm
Về cấu trúc ngụy biện, độc giả có thể tham khảo trang http://www.fallacyfiles.org/
Thế giới này tuy chưa phẳng nhưng đang toàn cầu hóa rõ rệt. Sân chơi quốc tế nằm ngay tại Việt Nam chứ chẳng cần phải chạy đi đâu. Một ví dụ dễ thấy là việc gia công (outsourcing) – một công ty tại Việt Nam sẽ phải làm ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn của công ty đi thuê ngoài, có khi là một công ty tận Mỹ hoặc Nhật.
Vậy nên trong thời đại ngày nay, khi nghĩ về “chất lượng” cao, ta không thể tránh khỏi phải động đến “tiêu chuẩn quốc tế”.
Trong khoa học, những người lên tiếng mạnh mẽ nhất về việc phải quốc tế hóa chất lượng cũng như quy chuẩn trong hoạt động khoa học có thể kể đến GS Hoàng Tụy, cố GS Bùi Trọng Liễu (Pháp), hay gần đây nhất là GS Nguyễn Văn Tuấn (Úc). Tuy vậy, chưa có nhiều thay đổi.
Ở mức độ thấp hơn, hiện nay có nhiều trường nghề cũng trương biển “trung tâm quốc tế” để câu khách. Nói là câu khách vì thực tế đầu ra của họ chỉ có “định hướng” quốc tế, có yếu tố quốc tế , chứ không thực sự phải đạt được tiêu chuẩn quốc tế.
Xét trường hợp cụ thể, ta có thể đặt câu hỏi “vậy một lập trình viên quốc tế thì cần phải như thế nào?”. Trả lời được câu hỏi ấy thì ta mới tỏ tường được các trung tâm dạy nghề kia có đạt chuẩn quốc tế không. Và câu trả lời này có thể sẽ tương đối dài, nhưng có thể phác ra vài điểm quan trọng bậc nhất:
1. Phải có kĩ năng cứng ở đẳng cấp quốc tế. Ví dụ, nếu là LTV Quốc tế thì phải hiểu được một LTV quốc tế khác (ví dụ ở MS, ở Oracle, ở Apache v.v.) viết gì trong mã nguồn các chương trình; và ngược lại viết ra dòng lệnh của mình thì phải khiến cho một LTV quốc tế khác cũng không cảm thấy “lạ lẫm” đến mức không hiểu được ta viết gì.
2. Am hiểu các tiêu chuẩn trong ngành, ở mức độ thế giới. Có thể cần phải cụ thể hóa bằng các kiểu ghi nhận: chứng chỉ, sản phẩm, v.v.
3. Khả năng giao tiếp thành thạo (nghe, nói, đọc, viết) chủ động, hiệu quả với động nghiệp quốc tế. Không thể nói anh “quốc tế” khi anh chỉ có khả năng cộng tác với người Việt được.
4. v.v. và v.v. 🙂
Phác ra mấy điểm như vậy, chính bản thân mình cũng thấy hoang mang. Vì mình cũng trương biển “quốc tế” khi làm việc, trong khi có vẻ như mình vẫn không phải kiểu “công dân toàn cầu” như vậy.
PS. Hình như cần cả các tiêu chí “mềm khác” kiểu như phải “đúng giờ” và tuân thủ. Chứ việc “cao su” hiện nay phổ biến quá. Lãng phí thời gian của mình và của đồng nghiệp. Entry này được ra đời trong hoàn cảnh ngồi chờ họp 🙁
Việc làm chủ một công nghệ không thể nào diễn ra trong một sớm một chiều. Nghịch lý là trong thời đại ngày nay, doanh nghiệp lại thường không có đủ thời gian để tham gia các chương trình đào tạo đầy đủ trong thời gian dài.
Người Nhật đã có một giải pháp hiệu quả để giải quyết cái nghịch lý đó. Phương án này có tên Shu-Ha-Ri.
Shu tức là giai đoạn ta tiếp thu theo hướng tuân thủ và sao chép để nắm bắt được nguyên gốc kĩ thuật. Khi học kĩ năng, về cơ bản Shu tức là bắt chước. So với khung hình thành kĩ năng của Dreyfus, thì Shu giúp chúng ta bước qua Novice đến với Advanced Beginner.
Ha là giai đoạn khi ta thuộc bài đôi chút, có thể sửa đi cho phù hợp với bối cảnh. Ta có thể gọi là “tùy chỉnh cho tối ưu”. Nhưng về cơ bản ta vẫn giữ những khung kĩ thuật cũ. Đối chiếu với Dreyfus, Ha giúp ta bước qua từ Begineer đến với Competent (được việc).
Ri là khi chúng ta đã thuần thục, mọi thứ trở thành “da thịt”, hành động nhạy bén, tự nhiên. Là lúc ta có quyền quên đi các hướng dẫn ban đầu để hành động như thế “tự nhiên”, “trực giác”. Đối chiếu với khung của Dreyfus, đây là lúc chúng ta đạt được “Proficient” và “Expert”. Lúc chúng ta thực sự tinh thông.
Từ Shu qua Ha đến Ri, đối với một kĩ năng nhỏ cần vài chục giờ đồng hồ luyện tập chú tâm; đối với những bộ kĩ năng nghề nghiệp, chúng ta có thể phải mất hàng năm trời.
Trong đào tạo tại doanh nghiệp. Khâu đào tạo cơ bản trong thời gian đầu sẽ khởi động quá trình lĩnh hội kiến thức; huấn luyện tiếp theo (coaching) trong công việc sẽ giúp lý thuyết được ‘nhúng’ vào thực tiễn, tạo ra đời sống của mình; tư vấn (mentoring, consulting) thời gian sau đó sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng công nghệ, làm chủ thực sự công nghệ đó.
Có lẽ cần phải sớm Việt hóa bài giảng này để mọi người bắt đầu nhanh hơn với Scrum:
Start Scrum Now
Scrum và agile vận hành theo thực nghiệm (empirical), lấy thực tiễn công việc làm trọng. Ken Schwaber nói “hãy nhìn cuộc sống như là nó đang là” để làm việc, và Scrum đơn giản là vậy.
Để có được sự thành công trong thực tiễn, Nonaka (được Jeff Sutherland gọi là ông nội của Scrum, là một trong những nhà lí thuyết về quản trị hiện đại có ảnh hưởng nhất thế kỉ 20) chỉ ra cần có sự khôn ngoan được gọi là phronesis (một số người khác dùng tiếng Anh là practical wisdom, trong tiếng Việt được dịch ra là minh triết, tuy vậy, trong phạm vi bài này tôi chọn cách diễn dịch nôm na) – sự khôn ngoan thực tiễn. Đó chính là khả năng quyết định và hành động tốt nhất trong một tình huống cụ thể để đạt được lợi ích chung. Một nhóm Scrum, với người lãnh đạo đặc biệt là Scrum Master, phải có được sự khôn ngoan này thì mới có khả năng vận hành tốt cơ chế tự tổ chức (self-organizing) và tự quản (self-managing).
Để phát triển phronesis, cần phải biết cấu thành của nó, chúng gồm:
- khả năng đánh giá cái tốt
- khả năng tham gia bối cảnh chung với người khác để tạo nên ba (không gian sáng tạo tri thức)
- khả năng nắm bắt bản chất của tình huống & sự vật cụ thể
- khả năng sử dụng ngôn ngữ, khái niệm & mô tả để đưa cái cụ thể vào tổng thể và ngược lại
- khả năng sử dụng hữu hiệu quyền lực chính trị để biến khái niệm thành hiện thực vì lợi ích chung
- khả năng khuyến khích phronesis của người khác để xây dựng tổ chức linh hoạt.
Scrum Master phải phát triển phronesis của chính mình cũng như cả nhóm và tổ chức. Scrum Master phải là một wise leader. Đó là thông điệp của buổi nói chuyện vừa rồi tại Hanoi Scrum:
Scrum Master: from thinking to actions
View more PowerPoint from Duong Tan
Bài liên quan: Cái tay ScrumMaster ấy làm việc gì?
Tìm kiếm
Sách mới: Tư duy thiết kế cho mọi người
Bài viết mới
Đang được chú ý
Chuyên mục
- Agile Mindset (149)
- Chuyện đời (22)
- Công nghệ (14)
- Đọc (75)
- Sách (46)
- Giáo dục (197)
- Constructivism (5)
- Học cách học (35)
- Khai phóng Giáo dục (19)
- Tu thân (5)
- Khác (15)
- Lean Startup (16)
- Linh tinh xòe (53)
- Lan man (24)
- Quản trị mới (57)
- COVID19 (9)
- Tài nguyên (2)
- Tri thức và Nhận thức (17)
- Xã hội tri thức (23)
- Tổ chức học tập (20)
Thẻ
36 kế dạy học thụ động (7)
active learning (8)
agile (41)
agile adoption (6)
agilemindset (6)
agile mindset (7)
agile transformation (5)
codegym (36)
constructivism (16)
Cánh Buồm (5)
công nghệ và giáo dục (15)
dạy học (4)
dạy tốt hơn (24)
education (4)
giáo dục (26)
giáo dục khai phóng (6)
growth mindset (5)
HỌC CÁCH HỌC (9)
học (6)
học tập (4)
học tập trải nghiệm (4)
inamori_kazuo (5)
kanban (6)
khởi nghiệp (5)
lean (14)
lean mindset (4)
lean startup (7)
learning (4)
làm lính thật tốt (21)
MOOC (5)
neomanager (8)
năng suất (5)
PBL (6)
personal kanban (4)
productivity (4)
reflection (5)
scrum (42)
seci (7)
sách (4)
sử kí (5)
thuyết kiến tạo (7)
tích hợp (10)
tản mạn chuyện đọc (10)
tổ chức học tập (7)
được việc (13)