Thầy dạy kinh tế nói rất ngắn gọn: đồng tiền đứng im không sinh lợi, phải để nó quay vòng. Tri thức cũng vậy, phải để nó lưu chuyển liên tục. Thế nên mới sinh ra SECI: tạo dòng chảy cho tri thức để sáng tạo 🙂
Continue reading
Thầy dạy kinh tế nói rất ngắn gọn: đồng tiền đứng im không sinh lợi, phải để nó quay vòng. Tri thức cũng vậy, phải để nó lưu chuyển liên tục. Thế nên mới sinh ra SECI: tạo dòng chảy cho tri thức để sáng tạo 🙂
Bác Tổng: Constructivism là gì?
Tấn: là lí thuyết về việc học, hay là lí thuyết về cách học
Có nhiều lí thuyết về việc học không?
Có nhiều, behaviorism, construcitivsm, đủ các kiểu ism luôn.
Thế học tập qua trải nghiệm có phải là cách học không?
Có là cách học.
Nó có phải là constructivism không?
Có.
Thế vậy Constructivism là lí thuyết về cách học hay là cách học?
Nó là lí thuyết về cách học, còn có nhiều cách học cụ thể đi theo lí thuyết đó. Nó là instance của một thứ abstract.
Thế định nghĩa của constructivism là gì?
Định nghĩa của em là “học tập là sự tự kiến tạo tri thức thông qua sự trải nghiệm và tương tác giữa kinh nghiệm với các ý tưởng bên trong và bên ngoài của cá nhân”?
Có định nghĩa khác không?
Có rất nhiều.
Nó như thế nào?
Em có thể tra Google, ra một đống. Nhưng em đang nói cái constructivism của em. Cái này cũng cần trải nghiệm.
Sao ông không nói trắng ra luôn?
Bạn bác Tổng: ông có slide định nghĩa không?
Không, em không chơi kiểu đó. Em đi tìm nghĩa, không trích định nghĩa.
OK, fine.
Constructivist Instruction và Direct Instruction là hai mẫu hình (paradigm) tư duy giáo dục. Dĩ nhiên là DI ra đời trước, tồn tại hàng nghìn năm. CI ra đời sau không phải để phủ nhận, đập bỏ, mà là bổ khuyết cho phần DI đã tỏ ra yếu kém trong giải quyết các vấn đề giáo dục.
Trong chừng mực các phương pháp, kĩ thuật giảng dạy, CI cung cấp các công cụ mới để nâng cao chất lượng giảng dạy, “năng suất” học tập – những cái mà DI chưa có vì điều kiện khoa học giáo dục chưa cho phép.
Đứng riêng ở cả hai mẫu hình, đòi hỏi người làm giáo dục phải làm tới nơi tới chốn, không được nửa vời thì mới mong có được kết quả. Một người không có năng lực cao khi sử dụng công cụ thuộc CI không đảm bảo sẽ có hiệu quả tốt hơn việc sử dụng các công cụ “cổ truyền”. Câu chuyện giống như chuyện so sánh bắn súng và bắn cung: rõ là ở hai thế hệ kĩ thuật khác nhau, nhưng vẫn cứ phải là người bắn thạo thì mới trúng đích được.
Nhảy ra khỏi sự cuồng nhiệt đến mức rồ dại khi đề cao CI hoặc DI như là chân lí tuyệt đối, ta thấy truyền thống và tân thời có thể đứng cạnh nhau mà không triệt tiêu nhau. Thay vì cứ phải chọn lấy một, ta chọn cả hai thì sao? Khi ấy ta có Smart Instruction https://dk-apotek.com. Mọi học thuyết và kĩ thuật trong giáo dục, chẳng qua là công cụ để đi đến một mục tiêu nào đó. Không cứ nhất thiết phải cực đoan.
Lục lọi một hồi, hóa ra cái mindset của agilist giản dị kinh người, quy giản về một chữ: học.
Tư tưởng nó đơn giải thế này:
Một căn bệnh của thời đại này là đọc và xử lí thông tin giới hạn vài trăm kí tự. Lười nghĩ, lười tìm, dán mắt vào News Feed, gì cũng có. Người nào cũng trí tuệ ngời ngời, nhưng là trí tuệ giả tạo.
Thanh niên trẻ nhiều tay cũng gớm, mới hai chục mà đã chém như ông già. Nhiều tay trẻ mơ cũng gớm lắm, tát cạn biển Đông. Như thế cũng tốt. Mơ là tốt. Nhưng thấy ít kẻ xắn tay vào gây dựng và làm cho đến nơi đến chốn. Làm gặp khó là bỏ. Đoản chí kinh.
Có Google, lời giải lúc nào cũng sẵn. Thế là nghĩ chẳng cần tích lũy làm gì. Một hôm màn hình smartphone vỡ, chạm chả nổi, nó nhân dạng tiếng người ra tiếng mèo rên, chịu chết không tìm được thông tin gì https://apotheke-zag.de/.
Đất nước bắt đầu có của ăn của để, rơi vào bẫy thu nhập trung bình, giữ mãi trạng thái trung bình. Thông tin thừa mứa, thanh niên có nguy ngơ giữ mãi trạng thái làng nhàng.
Thanh niên đang tìm động lực ở đâu?
Nhiều người biết là ProjectBased Learning hay nhưng hiện thực hóa thì khó. Mặc dù có nhiều sách hướng dẫn nhưng có lẽ chưa sách nào chạm vào được những chỗ khó vượt qua nhất.
Có thể kể ra vài cái :
1. Giáo viên ít người là những quản trị dự án giỏi, thậm chí không có năng lực quản trị dự án
Do không nắm vững dược các vấn đề cốt lõi của dự án, nên không thể vận dụng mô hình dự án vào trong học tập. Có lẽ đây là cái ít được để ý nhất: năng lực quản trị dự án cho giáo viên, và năng lực lái việc làm dự án phục vụ cho việc học. Phải đào tạo giáo viên trước, nhưng không phải là đào tạo áp dụng PBL, mà dạy lại cho GV project là gì, quản lí thế nào, rồi mới đến các vấn đề giáo dục của nó.
2. Thiếu môi trường phù hợp với dự án
Cái hay của dự án chính là sự phức tạp và chỉnh thể, thực (authentic) của các vấn đề. Những cái này đòi hỏi các setting thật, các điều kiện vật chất cũng như bài toán thật để giải quyết. Làm mãi phần mềm trên giấy thì còn gì là thú vị?
Bằng một cách nào đó (không nhất thiết tốn tiền), người giáo viên hoặc nhà trường phải tạo lập các settings này để đủ điều kiện vận hành cho các môn học theo PBL. Chuyện này cũng ít được để ý vì mất công, mất sức. Dù gì thì dễ nhất vẫn cứ để vác sách giảng thật hay hơn là nghĩ ra xây một phòng thí nghiệm, xưởng chế tạo.
3. Thiếu khả năng đánh giá phù hợp
PBL thể hiện các khía cạnh khác của quá trình học tập: khả năng thích ứng, giải quyết vấn đề, làm ra sản phẩm, tư duy trong thực tiễn … Thậm chí cả cái không khí và động lực của học sinh khi làm trong nhà xưởng cũng khác biệt so với trên lớp. Trong khi đánh giá cuối cùng lại thường nằm ở con số điểm tròn trĩnh, đặc biệt là những điểm chấm cho sự hoàn thiện của sản phẩm cuối. Bảng điểm có thể bóp chết tất cả những gì là hay ho của PBL. PBL là authentic learning, thì cũng cần một authentic assessment tương ứng. Tiếp cận tích hợp và chỉnh thể (holistic) thì đánh giá cũng phải chỉnh thể.
Một người mà mình gọi bằng Thầy, chưa từng đỗ đại học bao giờ lại được một GS TSKH lừng danh cùng ngành tôn đứng lên trên mình, và rất nhiều trí thức tầm cỡ khác gọi bằng đại ca. Ông luôn mồm bảo: “làm gì có ai giỏi, làm đi mới biết được”, “làm đi rồi học, làm mà học, làm thì học”. Cứ ra sản phẩm rồi thì biết giỏi cỡ nào.
Ông sếp mình dạo trước cứ mỗi lần giao nhiệm vụ là bảo “thử thách tiếp theo nhé, chịu khó học là ngon thôi”, và cũng từng rất sốt ruột khi thấy mình không biết cách đếm tiền, mắng như té tát “chú mày chẳng chịu học gì cả”. Nghe mắng thế rất nhục.
Cả hai vị cao thủ đó đều chung một ý tưởng: coi sự học là gốc của phát triển và thước đo cá nhân. Mà cái học này không nằm ở chỗ anh đã “học bao nhiêu ở nhà trường, có bao nhiêu bằng cấp” mà qua thể hiện trong công việc cụ thể, qua sản phẩm làm ra. Một nhân viên có thể mắc sai lầm (vì dốt), cũng có thể lặp lại thêm sai lầm một lần nữa (nếu nó không đến nỗi gây “chết người”), nhưng nếu anh ta cứ mắc sai lầm theo cùng một kiểu vì không chịu học thì rất đáng trách. Không ai dốt bền mãi, chẳng ai khôn tự nhiên hết, phải học mà làm.
Tôi từng khá sốc khi phải chứng kiến một cuộc so găng giữa trí tuệ con người và một cỗ máy siêu quyền lực mang tên Google, mà phần thắng thì không thuộc về con người. Phương [1]– một cô giáo tiểu học thâm niên, là cán bộ nòng cốt của một trường tiểu học có tiếng ở Hà Nội đang nổi giận đùng đùng lên tông cao độ để đánh võ mồm với một cô giáo trẻ khác (cô Thanh, cũng phừng phừng mặt đỏ) về cách viết đúng chính tả từ lô-gích (logic). Sau khi dự giờ cô Thanh, cô Phương nhất quyết cách viết “lô-gích” của cô Thanh là không đúng, phải viết là “lô-gíc” hoặc “lô-ghích”. Còn cô Thanh thì cũng cãi lại quyết liệt: “từ này tiếng Anh là logic, tiếng Pháp là logique (đọc là lô-gích-cờ), phiên ra tiếng Việt thì ghi là logic cũng được, lô-gích cũng được, lô-gíc cũng được”. Cô Phương: “không thể như thế được, chính tả chỉ có một quy tắc thôi. Hồi trước ở trường sư phạm, giáo sư viết là lô-gíc”. Thế rồi để minh họa cho khẳng định của mình, cô rút iPhone hồng của mình ra rồi Google từ “lô-gíc”. Cô chốt: “đấy, trên mạng người ta dùng là lô-gíc chứ, có ai dùng lô-gích đâu?”. Cô Thanh thì không những không hạ nhiệt mà còn căng thẳng hơn, nhưng không thể lí luận thêm gì nữa vì thấy mình rơi vào trạng thái “bó tay”.
Mình rất thích các cuốn sách thuộc loại “…thế mà đần”, kiểu như “Java cho những kẻ … thế mà đần” (Java for dummies). Sau này lại biết thêm thể loại “Triết học cho trẻ con”, lại càng thích. Hóa ra là cái gì cũng dạy được theo cách rất giản dị, chứ chẳng cần phải lên gân lên cốt điền cho hàn lâm vào trang sách cho mệt. Hóa ra đần có cái hay của nó. Em đần em có quyền đòi hỏi sách dễ hiểu.
***
Trẻ con đần từ trong trứng nước. Nó chẳng biết gì cả, vậy nên nó học mọi thứ, nó vặn hỏi tất cả chẳng ngại gì. Nhưng thật đáng tiếc là càng lớn lên người ta càng làm mất đi cái đức tính quý hóa ấy. Người ta không được phép nói năng những câu ngu ngốc nữa, không được phép hỏi những câu ngớ ngẩn nữa. Buồn cười thật, chả có lí gì phải như thế cả. Cứ làm thằng đần, sướng hơn: tha hồ mà hỏi, tha hồ mà học.
***
Tôi xin tự nhận mình là một kẻ “thế mà đần”.