Người có giáo dục được dạy cho biết đọc biết viết, biết tự học, biết làm người công dân, biết chung sống, biết tự chủ, biết làm lụng và phát triển. Nhưng biết rồi thì có còn học nữa không?
Continue reading
Người có giáo dục được dạy cho biết đọc biết viết, biết tự học, biết làm người công dân, biết chung sống, biết tự chủ, biết làm lụng và phát triển. Nhưng biết rồi thì có còn học nữa không?
Kinh tế lao dốc, doanh nghiệp làm ăn khó khăn, người lao động khốn đốn. Mục tiêu còn ở rất xa, nguồn lực và trí tuệ ngày càng giới hạn. Người khôn của khó, nhưng ta vẫn mong muốn đạt được sự thịnh vượng và an lạc. “Điều gì quan trọng và lúc này?”
Dưới đây là mấy dòng ghi nhanh, để tự răn mình:
Lùi sâu vào khoảng mười ba mười lăm năm trước tôi bắt đầu tìm hiểu về quản trị tri thức để phục vụ những dự án đang làm, tôi dần tiếp cận với tri thức luận của giáo sư Ikujiro Nonaka – một người đối với tôi lúc đó đơn giản chỉ là “ông nội của Scrum” (còn cha đẻ là Jeff Sutherland và Ken Schwaber). Nhưng chính mô hình SECI của Nonaka dần dà lại trở thành một cái lỗ đen để tôi lún ngày càng sâu hơn vào việc tìm hiểu về tri thức, về lao động tri thức, xã hội tri thức, kinh tế tri thức, cách tân, sáng tạo, khởi nghiệp, và quản trị mới.
Trong hơn một thập kỉ qua, cứ xuân thu nhị kì, tôi lại có dịp làm một seminar, hoặc khởi động một dự án, hoặc thực hiện một bài giảng nào đó mà lí luận của Nonaka mang tính chỉ đường. Tôi đã mang nó đi theo những cùng những bước chân qua nhiều trạm dừng chân (thoáng qua hoặc lâu dài) Hanoi Scrum, FPT Aptech, FPT University, FPT Corporate University, NTQ Solution, Agile Conferences, TrueMoney, BIDV, MSB, Cánh Buồm, Học viện Agile, CodeGym, GrowMind…
Đường đi ấy để lại một số kết quả của quá trình đó là nhìn thấy được (như sách vở, khóa học, sản phẩm, công ty khởi nghiệp); nhưng kết quả lớn hơn là trong nhận thức của mình về một lí luận quan trọng dẫn dắt con người chủ động tiến vào xã hội tri thức.
Con đường ấy tôi gọi là Tri Đạo, đường đi của tri thức, được vạch ra với viễn kiến tài tình của Peter Drucker, lí luận về công ty tạo dụng tri thức của Nonaka, cùng nhiều học giả, người thực hành lỗi lạc đi sau. Con đường ấy ngày càng sáng rõ và tiềm năng mang lại thật to lớn cho cá nhân, tổ chức, và xã hội.
Nay tôi mở lớp Tri Đạo để nối dài cái đường ấy, thông qua việc tìm hiểu sâu hơn về nó, đúc kết tích cực hơn, và truyền bá nó tích cực hơn chút nữa.
Việc mở lớp là lẽ đương nhiên phải làm. Tri Đạo được Viện Phát triển Giáo dục Khai phóng Libero và Trường Quản trị Hiếu Liêm (thuộc Học viện Agile) bảo trợ và thúc đẩy.
Tôi nhiệt thành rủ rê bạn cùng đi con đường này!
Thông tin ở đây: https://libero.school/course/tridao/
Minh triết thực hành (practical wisdom, Aristotle gọi là phonesis), là sự khôn ngoan được sinh ra từ thực tiễn, để quay trở lại tác động vào thực tiễn với khả năng giải quyết vấn đề tài tình và đúng đắn. Sau đây sẽ gọi tắt là khôn ngoan.
Khôn ngoan không được “học” thông qua tham dự bài giảng hoặc đọc sách, mà được kiến tạo trong quá trình đắm mình vào thực tiễn để giải quyết vấn đề. Nó bao gồm cách ta nhìn nhận tình huống, đánh giá, cảm nhận về, chủ ý đưa ra phép thử và hành động để giải quyết vấn đề. Nếu việc học là để nắm dược dữ liệu và quy tắc (hay quy luật, cũng thế thôi), ta sẽ có được hiểu biết. Vận dụng tốt, trải nghiệm khéo léo ta có sự khôn ngoan. Vừa hiết biết sâu sắc vừa khôn ngoan, và ra phán đoán hiệu quả ở mức cao ta có được sáng suốt.
Khôn ngoan mang trong mình tri thức ẩn (tacit knowledge) chứ không phải thứ được trình bày tường minh để có thể “dạy” được. Nó được sinh ra trong trải nghiệm. Khôn ngoan có tính bối cảnh, vận dụng tình cảm, không phải là quy tắc sơ cứng.
Quy tắc chỉ ra cái tuyệt đối (nguyên lí để làm việc này là gì?), khôn ngoan là về một cái cụ thể bối cảnh hóa (ý định cụ thể của hành động này là gì? có xung đột với điều gì ta đã biết hay không?). Quy tắc là cái khuôn mẫu phải theo. Khôn ngoan là thứ để thử và chỉnh. Quy tắc là lấy búa để đập vào đinh để đóng vào gỗ; khôn ngoan là thích nghi để biết có lúc không nên dùng đinh mà nên dùng mộng mộc. Cái thước gỗ giống với quy tắc, cái thước dây giống với khôn ngoan. Ta thấy nhiều quy tắc ở dàn nhạc giao hưởng, và thấy nhiều khôn ngoan hơn ở ban nhạc jazz.
Quy tắc không tính tới tình cảm, khôn ngoan là suy nghĩ với trái tim, lòng đồng cảm, sự tương tác với bối cảnh xung quanh để tạo ra giải pháp sáng tạo và vừa khít. Quy tắc là chỉ dẫn cụ thể phi tình huống. Khôn ngoan là sự lựa chọn “khuôn mẫu” (pattern) phù hợp với tình huống cụ thể.
Con người có thói quen bày thêm quy tắc. Ngày càng nhiều chỉ dẫn. Cho tới một lúc, người ta chỉ nhìn thấy chỉ dẫn mà quên mất mục đích cuối cùng là gì. Người ta làm các chỉ dẫn mà không có hồn. Đến lúc ấy, sự chỉ dẫn lại phản tác dụng. Nó không những không giúp người ta làm việc tốt lên, mà lại làm cho người ta mất đi nhiệt tình.
Quy tắc và phần thưởng là không đủ, không một hệ thống quy tắc chi tiết cỡ nào là đủ; thế giới của ta cần thêm sự khôn ngoan. Cỗ máy chỉ công năng (functionality), con người có mục đích và đạo đức. Phải có thêm chút tâm hồn và trí tuệ gói trong các quy tắc.
Để “bắc giàn” cho người học, giáo viên khôn ngoan (phronetic teacher) “khoe” (show/demo) để đạt được kết quả (mục tiêu), để chỉ ra một cách làm cụ thể (không hẳn là cách tối ưu), để người học nhìn thấy mà bắt đầu bắc chước, rồi lặp lại trải nghiệm để xây dựng trí khôn cho bản thân. Người giáo viên khôn ngoan không “nói” (tell/talk) ra phương án đầy đủ mà không kèm “demo”. Họ chỉ ra để người ta làm được, chứ không ham ‘bình luận về’ một giải pháp mà mình không có trải nghiệm.Giáo viên hay dạy quy tắc và bắt thuộc lòng, giáo viên khôn ngoan tạo điều kiện cho trải nghiệm và dạy “lí thuyết được lồng trong hành động”. Giáo viên thích học sinh mình làm “được việc”, “đạt điểm cao” (performance); giáo viên khôn ngoan còn biết hướng dẫn học trò có được sự thành thục (mastery) thực sự. Giáo viên khôn ngoan chú ý tới mọi học sinh trong lớp chứ không bỏ qua những đứa ‘không thể dạy nổi’, hoặc ‘những đứa có bỏ đấy nó cũng tự xoay sở được’ như một số ‘hướng dẫn’ bất thành văn từ người đi trước.
Nhà quản lí khôn ngoan không “ốp” phương pháp quản lí theo sách vở dù nó nổi tiếng (management fad), mà vận dụng khéo léo cho vừa với tạng của mình và tổ chức để đạt được mục tiêu trước mắt hoặc lâu dài. Anh ta không quên rằng mọi việc đều hướng đến một mục đích duy trì sự năng động của tổ chức và sự hạnh phúc của toàn thể nhân viên.
Lập trình viên khôn ngoan không nhặt mã lệnh trong sách và gắn đại vào chương trình, mà đẽo gọt cho vừa với thiết kế tổng thể và có chương trình gọn đẹp hiệu quả đối với người dùng.
Nhà thiết kế dân dụng khôn ngoan tạo ra sản phẩm khiến cho người dùng sử dụng đúng như công năng mà họ mong muốn sản phẩm phải có.
Người khôn ngoan thì tìm thấy giải pháp tốt nhất trong sự phục vụ, hướng tới người khác (customer-centric), chứ không phải nhất nhất “theo quy tắc”. Người khôn ngoan, do đó, ‘đọc đời’ nhiều hơn đọc sách. Họ biết khi nào ‘chỉ cần theo hướng dẫn’, khi nào phải ‘bẻ cong’ luật lệ, và lúc nào là lúc phải chuyển hóa , lúc nào phải tạo ra một công cụ hoặc thực tại mới.
Tổ chức quan liêu nhiều quy tắc, tổ chức linh hoạt nhiều khôn ngoan.
Ta cần cả hiểu biết và khôn ngoan, trong một sự cân bằng và linh hoạt để suy nghĩ, làm việc và yêu thương. Một số sẽ muốn mình còn đi xa hơn, trở thành người hiểu đạo và là người sáng suốt. Nó vừa là phương tiện mang đến sự hạnh phúc và đủ đầy; tự nó cũng vừa chính là một sự đủ đầy.
Tham khảo:
Hôm nay khai giảng lớp NeoManager đầu tiên, mình có hỏi một câu hỏi rất bình thường nhưng có lẽ là rất thú vị.
“Theo bạn, từ Paris gợi lên điều gì?”
Có người bảo “cái hiệu bánh”.
Có người bảo “Tháp Eiffel”.
Có người bảo “Thủ đô nước Pháp”.
Mỗi người sẽ ghi nhớ và ấn tượng với ý nghĩa của một Paris khác nhau.
Mình hỏi thêm có ai biết Paris là một chàng hoàng tử trong chuyện cổ Hy Lạp không. Có người bảo có, phần lớn bảo không.
Nếu một đứa trẻ ở một buôn làng xa xa, chưa biết đến nước Pháp, chưa có tiệm bánh Paris quanh nhà, mới chỉ đọc cuộc chiến thành Troy thì nó sẽ chỉ biến đến một anh chàng đẹp giai tên là Paris thôi.
Hiểu biết trong đầu luôn diễn biến. Giống như Thomas Kuhn từng nói về tri thức khoa học: lớp sau phủ nhận lớp trước, cứ thế tri thức nhân loại tiến lên.
Tri thức trong đầu cũng vậy, mỗi lần tiếp xúc với cái mới, khả năng nó sẽ ghi đè, hoặc thêm vào những tầng nghĩa mới lên một khái niệm đã có ở trong đầu.
Cứ mỗi khi học được một tầng nghĩa mới, ta lại thấy ngày xưa mình hiểu khái niệm đó thật nông cạn. Cứ mỗi khi đọc lại một cuốn sách hay sau mỗi năm, ta lại thấy hình như ngày xưa hiểu chưa đúng. Cứ mỗi khi đọc lại bài viết của chính mình từ dăm bảy năm trước, ta lại có thể cười tủm “sao vớ vỉn ngần kia”. hehe.
Mười nghìn giờ giờ là số giờ luyện tập có chủ đích (deliberate practices) để trở thành “kẻ xuất chúng” trong lĩnh vực của mình. Tác phẩm “Những kẻ xuất chúng” của Malcom Gladwell trích dẫn nghiên cứu của nhà tâm lí học Anders Ericsson về sự phát triển tài năng ở con người. Thực tế là hầu hết chúng ta sẽ không trở thành “kẻ xuất chúng” theo nghĩa “trên đỉnh thế giới”. Nhưng nếu ta tích luỹ đủ số giờ luyện tập có chủ đích thì ta sẽ ở cái đỉnh của riêng mình. Ở đây luyện tập có chủ đích là luyện tập để nâng cao tay nghề, có mục đích, và có hệ thống chứ không phải là cứ làm việc gì đó bất kì thì được tính vào số giờ tích luỹ.
Người lớn học thế nào? Việc học của người lớn có giống cách học của trẻ con? Người lớn học tập từ đâu? Điều gì khiến việc học của người lớn trở nên hiệu quả?
Đó hẳn không phải là những câu dễ trả lời.
Động cơ học tập của người lớn có thể phức tạp hơn, đa dạng hơn nhưng những cơ chế để hình thành kiến thức thì có nhiều điểm tương đồng với việc học của trẻ con. Ngoại trừ các phương diện thực dụng, việc học bền vững và chủ động ở người lớn cũng vẫn đòi hỏi những tiền đề như là sự ham muốn học hỏi, cần sự trải nghiệm, và cần thời gian để xây dựng một hệ thống tri thức cho riêng mình.
Có lần tôi đã viết về những kẻ làm liều. Còn nữa, “những kẻ nói liều”.
Nói liều có phần nào đó giống với những kẻ nói nhiều. Họ nói rất nhiều thứ nhưng thông tin lại ít.
Kẻ nói liều thường không tự định giá được trọng lượng lời nói của mình. Điều này là hiển nhiên vì nói liều tức là nói những cái mà mình không biết. Nhưng vì sĩ diện, vì tinh tướng, đôi khi là để che dấu cái ngu dốt, họ cứ nói để tỏ cái tôi của mình thật cao. Và dĩ nhiên, điều họ nói khó có giá trị đối với người khác. Đôi khi, họ nói cho sướng miệng chứ không nhằm một mục đích gì khác.
Những kẻ nói liều thường thiếu đức tính khiêm tốn. Người khiêm tốn luôn luôn nói ít hơn những gì mình có, những gì mình biết. Họ tuân thủ chặt câu nói của Khổng Tử: biết gì nói ấy, không biết thì bảo là không biết.
Những kẻ nói liều thường thiếu đức tin. Có đức tin thì người ta lại chẳng nói liều, vì lời họ nói do đức tin dẫn dắt. Có đức tin dẫn dắt thì nói sẽ có lô-gích, và cẩn trọng. Vì thế những người hoài nghi tất cả khó lòng kiềm chế được lời ăn tiếng nói của mình. Với họ, chỉ có nghi ngờ, thế thì có cái gì là ghê gớm đâu, có ai ra gì đâu. Ta đây mới là nhất, tôi chỉ tin vào chính mình. Déscarte nói có hai loại hoài nghi: loại để hiểu biết thế giới, loại chỉ để hoài nghi. Loại thứ hai dành cho kẻ hãnh tiến.
Dạo này tôi hơi bị mất tự tin, nhưng càng ngày càng tự tin khi nói “Tôi biết một điều chắc chắn, là tôi không biết gì cả”. Thực ra là học đòi Socrates. Tôi tự tin là tôi cũng không thông minh hơn cụ Socrates, nên nói câu ấy vừa là tinh tướng, nhưng cũng an ủi là mình đỡ liều khi nói hehe.