Bẵng đi mấy tuần kể từ ngày khai giảng, tôi mới có dịp ghé qua nhà hỏi han tình hình đứa em họ đang học một trường cao đẳng tạm gọi là khá ở Hà Nội. Căn phòng trọ mươi mét vuông điển hình của giới sinh viên nghèo, cấu hình đơn giản gồm một bàn học và cái giường ngủ chung; có khá hơn lứa sinh viên những năm đầu thập kỉ trước là cái tủ lạnh cũ do gia chủ cho mượn tạm và đường truyền Internet. Như nhiều sinh viên khác, cậu em không cần sắm cho mình một tủ sách vì “chẳng cần đọc sách, cũng chẳng thích đọc”, rất điển hình của thế hệ @, mọi việc cần cứ gọi Google là xong hết.
Hỏi han chuyện học hành, thấy cu cậu có vẻ khoái lắm. Háo hức làm bài, háo hức nộp bài và lo lắng chờ báo điểm. Có vẻ cậu đã hòa nhập nhanh với môi trường sau phổ thông. Lúc dẫn cu cậu vào trường, cái tôi lo nhất là cậu không thích học; giờ thì đỡ được khoản ấy. Nhưng hỏi kĩ lại đâm lo mối khác. Trong ba-lô in hình logo rất đẹp của trường, cậu để ở đấy phần lớn gia tài của mình gồm một chiếc bút, cái máy tính xách tay bố mới mua cho và ba quyển vở ô li còn thừa từ hồi học phổ thông chưa dùng hết. Sách giáo trình rất đẹp mua của trường thì bỏ chỏng chơ trên giường. Hỏi sao không đọc, cậu bảo “thông tin có hết trên slide”, sách chứa toàn cái biết rồi. Giật mình, tưởng cậu em giỏi quá, vào nhầm trường. Mở sách ra kiểm tra đôi chút hóa không phải, cậu chẳng thể phân biệt nổi mấy khái niệm cơ bản vừa học xong. Nhưng điều đó rõ ràng là không hệ trọng đối với cậu, vì mọi thông tin để làm bài quiz có hết trong slide rồi. Rõ là đọc slide ngắn hơn và dễ chịu hơn nhiều so với đọc sách. Mở vở ra thì thấy lơ thơ vài dòng chữ. Hỏi “còn ghi chép thêm gì lên máy không”, đáp “không, cần gì, mở slide ra là có hết rồi, chép lại làm gì”. Hóa ra cu cậu không biết cách ghi chép, không biết cách tổ chức thông tin, cũng không biết cách đọc, hay nói nôm na đại khái là: không biết cách học. Tôi bắt đầu lo, nhưng không chỉ cho riêng cậu em, mà lo cả cho trường cao đẳng mà tôi đã đặt niềm tin vào đấy.
Ở môi trường cao đẳng – đại học, chúng ta mặc nhiên thừa nhận “sinh viên phải tự học” như là cái hiển nhiên phải thế. Các thầy cô giáo cũng thường xuyên nhắc nhở sinh viên phải tự học. Lời nhắc nhở thì không sai, nhưng công tác giáo dục chỉ dừng ở chỗ ấy thì lại có vấn đề. Vì cách nghĩ ấy thừa nhận khả năng tự học ở sinh viên là đã có sẵn, đã “đủ dùng”, trong khi thực tế lại không được như vậy. Tự học là một quá trình, năng lực tự học phải do rèn luyện mà có chứ không tự nhiên thành. Khổ thân em tôi, chưa kịp học bơi mà đã bị nhà trường quẳng hẳn ra giữa dòng nước xiết!
Trong giáo dục hiện đại, vấn đề tự học được quan tâm không phải là ít. Tổ chức P21 (Partnership for 21st Century Skills[1]) thậm chí còn gom kĩ năng học tập và sáng tạo là một trong bốn nhóm kĩ năng cơ bản không thể thiếu của công dân thế kỉ 21. Còn các nhà sư phạm thì từ lâu đã nghiên cứu và ứng dụng khái niệm về siêu nhận thức (metacognition) – là những hiểu biết và kĩ năng để làm chủ việc học của chính mình, nói nôm na là biết cách học. Theo Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Hoa kì (2010), việc tích hợp các kĩ năng siêu nhận thức vào trong chương trình học là một việc quan trọng để đảm bảo tính hiệu quả của công tác giảng dạy[2]. Với việc sở hữu năng lực siêu nhận thức, sinh viên biết được năng lực của mình giới hạn đến đâu, nhiệm vụ học tập nào là phức tạp hay đơn giản, và có thể biết được năng lực của mình về vận dụng các chiến lược học tập khác nhau. Bên cạnh nỗ lực của chính sinh viên để tự mình phát triển năng lực này ở bản thân, tìm ra cho mình được cách học hiệu quả nhất, người thầy hoặc nhà trường phải đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc trực tiếp có các chương trình đào tạo kĩ năng tự học, hoặc tích hợp các kĩ năng này vào trong từng môn học cụ thể với những biện pháp thực hành đặc thù. Được như vậy thì nhà trường có thể yêu cầu sinh viên tự học mà không khiến các em phải “bơi” quá sức mình, dễ “chết đuối” hoặc bỏ cuộc giữa chừng.
Chúng ta đã thống nhất giả sử lên đại học sinh viên phải tự học là chính. Thế thì, nếu ví tri thức như cá, tự học là cái cần câu, và người học là người đi câu, thì điều hết sức quan trọng không phải là tìm mọi cách hay dùng thật nhiều công nghệ tân tiến để nhồi tri thức vào đầu học sinh, mà phải trang bị cho sinh viên cái cần câu thật tốt. Người thầy và nhà trường cần dạy cho sinh viên học cách học trước đã.
Dương Trọng Tấn (Đăng Đa Diện 2014)
[1] www.p21.org
[2] Theo “How People Learn: Brain, Mind, Experience, and School”, 2010, Hội đồng Nghiên cứu Quốc gia Hoa Kỳ
Những ngày gần đây, dân tình đang xôn xao bàn tán chuyện Tp. HCM chuẩn bị thí điểm một dự án lên đến gần 4000 tỷ VND để “hiện đại hóa” giáo dục tiểu học của Thành phố thông qua các phương tiện công nghệ thông tin hiện đại như hệ thống quản lí học tập, sách giáo khoa – giáo án điện tử, và những chiếc máy tính bảng. Chuyện lùm xùm chủ yếu xoay quanh cái máy tính bảng và số tiền khủng, báo chí đã bàn nhiều, tôi lại muốn thảo luận đôi chút về một chủ đề khác: hiện đại hóa giáo dục là hiện đại hóa cái gì?
Continue reading
Phần nhiều các lớp học ở nước ta hiện nay vẫn diễn ra theo trình tự thế này: cô giáo bước vào phòng, hỏi han lại bài cũ, sau đó bắt đầu giảng bài, đi từ chủ điểm nọ đến chủ điểm kia; nói đến khái niệm nào cô giáo cố gắng lấy ví dụ cho học trò dễ hiểu; thỉnh thoảng cô dừng lại hỏi han đôi chút xem học trò có hiểu không; rồi lại giảng hết cho xong bài. Phần được gọi là “lý thuyết” như thế chiếm phần lớn thời lượng học tập trên trường của học trò. Cách học này được mô tả là không-khác-gì-thế-kỉ-19.
Đầu thế kỉ 20, kể từ khi nhà cải cách giáo dục John Dewey “xúi” nước Mỹ tiến theo giáo dục cấp tiến (Progessive Education), người ta bắt đầu để ý chuyển dịch việc dạy sang nhiều kiểu khác. Bài học có thể bắt đầu từ vấn đề cần giải quyết, cô giáo hướng dẫn cho học trò sử dụng các khung kiến thức nhất định, xúm vào giải quyết vấn đề đó, qua đó tự lĩnh hội được các kiến thức và kĩ năng cần thiết. Lớp học có thể không bắt đầu bằng một bài học trong lớp học, mà ở trong phòng thí nghiệm, xưởng chế tạo, hoặc ngoài đồng. Giáo viên bắt đầu giờ học bằng việc giao một dự án (project) cho học trò bắt tay vào hoàn thành nó trong khuôn khổ thời gian và điều kiện cho phép. Những hướng đi mới (thực ra là cũ mèm, tính từ lần đầu chúng được nhắc tên) problem-based learning hay project-based learning (viết tắt: PBL) ấy hiện nay vẫn còn khá xa lạ với phần nhiều các lớp học ở Việt Nam.
Rồi khi Jean Piaget cùng những nhà tâm lí học giáo dục, nhà cải cách giáo dục khác như Lev Vygotsky, Jerome Bruner hay Maria Montessori tìm ra được cơ chế phát triển nhận thức, đề xướng và khuyến khích các phương pháp học tập kiến tạo (constructivism), người ta tiếp tục củng cố và phát triển thêm nhiều phương pháp có cái vẻ hao hao như các PBL kể trên. Chúng ta có thể bắt đầu không còn thấy những lớp im phăng phắc nghe cô giáo giảng bài nữa, thay vào đó là những lớp học với các nhóm thảo luận, các học trò đang chơi đóng vai, hoặc đang cãi nhau chí chóe. Những hoạt động học tập theo hướng hoạt động này giờ không còn là điều xa xỉ trong lớp học, nhiều giáo viên đã thực sự thay đổi bản chất việc học ở nhà trường. Người học đã có thể chủ động hơn trong việc xây dựng tri thức phù hợp với mình, theo cách của mình. Chính tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc UNESCO[1] cũng đã thừa nhận tầm quan trọng to lớn của các phương pháp học tập kiến tạo, học tập qua trải nghiệm, học tập qua tình huống, học tập qua khám phá – những phương pháp học tập tích cực – trong việc mang lại quá trình giáo dục có chất lượng hơn cho thế kỉ 21.
Ở ngay nước ta thôi, nhà giáo Phạm Toàn, thủ lĩnh của nhóm cải cách giáo dục Cánh Buồm cũng đã nhiều lần khẳng định cần phải thôi ngay ảo tưởng “nuốt lời mà thành người”. Dựa trên những thành tựu của khoa học giáo dục và tâm lí học, ông chủ trương một cách học mới cho trẻ con bằng một câu thật giản dị: làm mà học, làm thì học. Học phải thông qua việc làm. Nhiệm vụ của thầy cô giáo chuyển từ vai trò giảng giải và nhồi nhét thông tin sang tổ chức việc tự học cho học sinh qua một chuỗi các việc làm được thiết kế cho mục đích giáo dục. Thông qua việc tự làm lấy công việc học tập, học sinh được trải nghiệm, được tham gia, được tự mình làm ra kiến thức. Đấy là một cách học có vẻ tự nhiên như ngàn đời, nói ra ai cũng gật đầu khen phải, nhưng lại rất khác biệt so với cách chúng ta đang vận hành giáo dục trong nhà trường hiện nay.
Các nhà giáo dục như Dewey, Montessori, Phạm Toàn có thể sống trong các thời đại khác nhau, xã hội khác nhau, nhưng lại rất giống nhau trong việc dứt khoát từ chối lối dạy nhồi nhét thông tin, học tập nặng về ghi nhớ. Đối với họ, học phải qua việc làm, learning-by-doing. Khi tiếp cận đường lối của nhóm Cánh Buồm, bà Bùi Trân Phượng – Hiệu trưởng Đại học Hoa Sen – từng nhận xét: “Đây chỉ là cách giáo dục bình thường của các nước trên thế giới. Chỉ vì ta không bình thường, cho nên mới như hiện nay. Do vậy, chúng ta phấn khích vì sự trở lại bình thường mà nhóm Cánh Buồm đã mang về”. Hóa ra bấy lâu nay chúng ta rất khác thường.
Những tư liệu, bài học thành công về các hình thức dạy học kiểu mới mà UNESCO khuyến khích này có thể tìm thấy dễ dàng trên Internet. Mọi nhà giáo đều dễ dàng có thể có được thông tin để thay đổi không khí lớp học của mình. Những thay đổi nhỏ từ dưới lên kiểu này có thể mang lại giá trị to lớn hơn nhiều so với những hô hào rùm beng, hay những dự án cải cách trị giá nghìn tỉ. Khi nói điều này với nhiều giáo viên, tôi thấy họ gật gù khen hay và rất thích thú, thậm chí còn được nghe họ nói là đã thử cái nọ cái kia. Nhưng trong thực tế, phần nhiều lại đang làm theo lối cũ, và chấp nhận một kết quả mà chính họ cũng thừa nhận là “không thể hài lòng được”. Họ viện dẫn các quy định khắt khe về quy trình, về tiêu chuẩn, hay hàng tá các giới hạn khác để cuối cùng phải chấp nhận tình cảnh “vũ như cẫn”. Có điều gì đó không ổn ở đây chăng?
Dương Trọng Tấn.
Đây là một câu nghe đâu là của Francis Bacon: “Có loại sách chỉ để nếm náp đôi chút, có loại thì nuốt chửng, còn một số thì phải nhai ngấu nghiến”. Mình hoàn toàn đồng ý.
Và hoàn toàn thoải mái khi xếp cuốn sách “How to read a book” (Dịch sang tiếng Việt với một cái tên nổ như ngô rang là “Đọc sách như một nghệ thuật”) của nhà giáo trứ danh M. Adler. Cuốn sách xuất bản từ 1940, nhưng giờ mà không quảng cáo nó ra đời từ dạo ấy thì không ai bảo nó cũ. Phàm phải loại kinh điển thì toàn thế cả.
Số mình đen nên phải tận tới khi mình học xong đại học, đọc cả đống sách vở rồi mới được “diện kiến” cuốn này. Trước đó đọc sách theo kinh nghiệm, bắt chước người khác, và cùng lắm là vận dụng mấy cái mẹo vặt SQ3R để đọc, chứ không nghĩ là lại có những nguyên tắc đọc mang tính “hệ thống cống rãnh” lớp lang đầy đủ trên đời này. Nói chung là đen như chấy.
Và hoàn toàn thoải mái khi xếp cuốn sách “How to read a book” (Dịch sang tiếng Việt với một cái tên nổ như ngô rang là “Đọc sách như một nghệ thuật”) của nhà giáo trứ danh M. Adler. Cuốn sách xuất bản từ 1940, nhưng giờ mà không quảng cáo nó ra đời từ dạo ấy thì không ai bảo nó cũ. Phàm phải loại kinh điển thì toàn thế cả.
Số mình đen nên phải tận tới khi mình học xong đại học, đọc cả đống sách vở rồi mới được “diện kiến” cuốn này. Trước đó đọc sách theo kinh nghiệm, bắt chước người khác, và cùng lắm là vận dụng mấy cái mẹo vặt SQ3R để đọc, chứ không nghĩ là lại có những nguyên tắc đọc mang tính “hệ thống cống rãnh” lớp lang đầy đủ trên đời này. Nói chung là đen như chấy.
Continue reading
Đã có hơn một triệu người đã “tốt nghiệp” ít nhất một khóa học trên Coursera kể từ khi nó được giới thiệu ra công chúng vào năm 2012. Theo một khảo sát[1] diện rộng mới đây của nhóm tác giả công bố trên Havard Business Review ngày 22-9-2015, Coursera cùng với edX và các nhà cung cấp MOOC khác đã thu hút khoảng 25 triệu người học chỉ trong thời gian 3 năm, trong đó có khoảng 40% đến từ những nước khó khăn không thuộc OECD, và 80% trong số đó có trình độ đại học trở lên. Khảo sát cũng cho thấy số lượng lớn người học MOOC nhận thấy lợi ích đối với nghề nghiệp (72%) và việc giáo dục (61%) của bản thân. Ngay cả khi tỉ lệ hoàn thành khóa học là rất nhỏ (hay diễn dịch một cách khác: tỉ lệ bỏ học là rất cao), thì với việc tạo ra những thay đổi tích cực cho hàng triệu người trên thế giới, MOOC đang dần chứng tỏ rằng những kì vọng ban đầu của nó về tác động lớn lao tới giáo dục là không hề quá viển vông.
Đây là những thông tin rất đáng chú ý bên cạnh những thông tin đáng chú ý khác từ báo cáo của Chen Zhenghao và cộng sự, “Who’s Benefiting from MOOCs, and Why“, HBR, 22-9-2015 (https://hbr.org/2015/09/whos-benefiting-from-moocs-and-why).
Thỉnh thoảng tôi được báo nọ báo kia phỏng vấn, thậm chí VTC còn dành cả một số “Ai là ai” để phỏng vấn và lên hình, nhưng lần trả lời phỏng vấn VinaCode vẫn là lần tôi thích nhất vì sự chuyên nghiệp của người phỏng vấn dành cho đối tác. Là một địa chỉ rất mới nhưng đã nhanh chóng trở thành địa chỉ quen thuộc của giới lập trình, với những bài viết rất hữu ích.
Dưới đây là nội dung bài phỏng vấn đã đăng từ vài tháng trước, nay tôi đăng lại toàn văn. Chỉ vì thích, và đang có dịp lật lại vấn đề về đào tạo lập trình viên.
Continue reading
Trước hết là do hiểu sai khái niệm giáo dục học “trải nghiệm”. Hay bị gán ghép với ý nghĩa thông tục của trải nghiệm, cho nên có chuyện “cho đi ra đồng trải nghiệm” – thực chất là cưỡi ngựa xem hoa.
Learning-by-doing là một chủ trương học tập, không phải một phương pháp, cũng không phải một phương pháp luận. Xuống đồng cuốc đất chưa chắc đã nắm được điều căn bản gì của nghề nông. Nhiều cách làm “học trải nghiệm” hiện nay không tiến xa được bởi có làm nhưng chưa có sự nghiệm lại. Thực tế, quy trình học tập trải nghiệm liên quan chặt chẽ với quy trình tiếp nhận thông tin từ các giác quan và xử lí nó, đưa thành nhận thức và lưu giữ trong não bộ. Học tập trải nghiệm, theo Kolb, là một quá trình vận dụng các hiểu biết về tâm lí và cơ chế học tập của não bộ để việc học được tự nhiên cũng như đạt kết quả cao hơn. Nó rõ ràng không thể là hình thức đơn giản hóa “cho đi trải nghiệm” được.
Continue reading
Chuyện con cú Duolingo
Nguyễn Việt Khoa, một thầy giáo dạy lập trình tận tâm tại một trung tâm đào tạo lập trình viên ở Hà Nội, chưa bao giờ lại nghĩ có lúc việc bồi dưỡng năng lực tiếng Anh của mình lại đến một cách đơn giản và tự nhiên như vậy. Trong gần mười năm đi dạy, gặp lứa học trò nào anh cũng dặn thật kĩ “các em cố gắng học ngoại ngữ cho tốt, ngoại ngữ không ổn thì không thể làm IT khá được”, nhưng chỉ khoảng 5% số sinh viên của anh thực sự bắt tay vào học thêm ngoại ngữ, phần còn lại chỉ gật gù và bỏ đấy. Chính anh cũng vậy: Dù biết mình cần nâng cấp trình độ ngoại ngữ hơn nữa, nhưng anh chưa bao giờ thực sự bắt tay vào học thêm, vì bận, và ti tỉ lí do khác. Thế rồi anh biết đến Duolingo, một phần mềm tự học ngoại ngữ đa nền tảng, đa ngôn ngữ. Anh bắt đầu tham gia cộng đồng hơn một triệu thành viên theo chương trình học tiếng Anh cho người biết tiếng Việt, và nhanh chóng nhận ra việc làm này mang lại lợi ích to lớn. Đồng thời, anh cũng tạo ra cuộc chơi trong chính lớp học của mình. Nhiều học trò đã nối gót thầy, tự học ngoại ngữ, tự tổ chức nhóm học tập để chia sẻ kinh nghiệm và theo dõi tiến độ. Có quá nửa số học trò trong lớp reo vui trên Facebook mỗi khi vượt lên trên trong cuộc đua giành thứ hạng cao trên bảng tổng sắp của Duolingo. Đây thật là một sự thay đổi thú vị đáng ngạc nhiên.
Continue reading
Tìm kiếm
Sách mới: Tư duy thiết kế cho mọi người
Bài viết mới
Đang được chú ý
Chuyên mục
- Agile Mindset (149)
- Chuyện đời (22)
- Công nghệ (14)
- Đọc (75)
- Sách (46)
- Giáo dục (197)
- Constructivism (5)
- Học cách học (35)
- Khai phóng Giáo dục (19)
- Tu thân (5)
- Khác (15)
- Lean Startup (16)
- Linh tinh xòe (53)
- Lan man (24)
- Quản trị mới (57)
- COVID19 (9)
- Tài nguyên (2)
- Tri thức và Nhận thức (17)
- Xã hội tri thức (23)
- Tổ chức học tập (20)
Thẻ
36 kế dạy học thụ động (7)
active learning (8)
agile (41)
agile adoption (6)
agilemindset (6)
agile mindset (7)
agile transformation (5)
codegym (36)
constructivism (16)
Cánh Buồm (5)
công nghệ và giáo dục (15)
dạy học (4)
dạy tốt hơn (24)
education (4)
giáo dục (26)
giáo dục khai phóng (6)
growth mindset (5)
HỌC CÁCH HỌC (9)
học (6)
học tập (4)
học tập trải nghiệm (4)
inamori_kazuo (5)
kanban (6)
khởi nghiệp (5)
lean (14)
lean mindset (4)
lean startup (7)
learning (4)
làm lính thật tốt (21)
MOOC (5)
neomanager (8)
năng suất (5)
PBL (6)
personal kanban (4)
productivity (4)
reflection (5)
scrum (42)
seci (7)
sách (4)
sử kí (5)
thuyết kiến tạo (7)
tích hợp (10)
tản mạn chuyện đọc (10)
tổ chức học tập (7)
được việc (13)